Người Chăm Ở Hải Nam: Hành Trình Lịch Sử Và Nét Văn Hóa Độc Đáo

Đảo Hải Nam trên bản đồ địa dư

Trên hòn đảo Hải Nam xinh đẹp thuộc lãnh thổ Trung Hoa, tồn tại một cộng đồng người Chăm mang trong mình dòng máu và văn hóa Champa xa xôi. Từ những ghi chép lịch sử đến những nét văn hóa độc đáo, hành trình của người Chăm ở Hải Nam mở ra những trang sử đầy thú vị và những câu hỏi chưa lời giải đáp về cội nguồn của họ.

Dấu Ấn Lịch Sử: Từ Champa Đến Hải Nam

Sự hiện diện của người Chăm ở Hải Nam được các tài liệu lịch sử Trung Hoa ghi nhận từ thời nhà Đường (618-906). Ban đầu, Hải Nam là nơi trú ẩn của các thương nhân Ả Rập và Ba Tư gặp nạn trên biển. Đến cuối thế kỷ IX, những ghi chép về người Chăm tại Hải Nam bắt đầu xuất hiện.

Sang thời nhà Tống (960-1279), mối liên hệ giữa Hải Nam và vương quốc Champa càng được củng cố. Các phái đoàn ngoại giao, những dòng người tị nạn chạy trốn chiến tranh đã tạo nên một cộng đồng người Chăm ngày càng lớn mạnh trên đảo. Đặc biệt, tài liệu lịch sử đề cập đến những nhân vật mang họ “Pu” – được cho là bắt nguồn từ tiếng Chăm hoặc tiếng Ả Rập – giữ vai trò quan trọng trong quan hệ giữa Champa và Trung Hoa.

chamhainam 02 8736335eCổng vào thôn Huixin của Chăm Hồi Giáo tại Hải Nam (Photo: Po Dharma, 14-12-2011)

Tác phẩm “Dư Địa Chí Yazhou”, ghi chép về Hải Nam dưới thời Tống – Nguyên, miêu tả chi tiết về cuộc sống của người Chăm trên đảo. Họ sống ven biển, tập trung ở những khu vực như Fancun (“làng người nước ngoài”) hay Fanpu (“bến tàu của người nước ngoài”). Tác phẩm cũng cho thấy sự hòa nhập của người Chăm vào văn hóa bản địa, thể hiện qua việc họ từ bỏ họ “Pu” để lấy họ người Hán.

U Chăn Hay U Chăng: Lời Giải Mã Từ Ngôn Ngữ

Một câu hỏi được đặt ra: Liệu người Chăm ở Hải Nam ngày nay có thực sự là hậu duệ của vương quốc Champa hay không? Câu trả lời có thể được tìm thấy trong chính ngôn ngữ của họ.

Cộng đồng người Chăm ở Hải Nam tự gọi mình là “U Chăn” hay “U Chăng”. Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, cụm từ này có thể được hiểu là:

  • U: Cách phát âm của “Urang” trong tiếng Chăm, có nghĩa là “người”, “con người”.
  • Chăn/Chăng: Cách phát âm biến thể của “Cam” – tức “người Chăm”.

Như vậy, “U Chăn” hay “U Chăng” chính là “Urang Chăn”, mang nghĩa “người Chăm”.

chamhainam 03 d332f555Phụ nữ Chăm Hồi Giáo Hải Nam tiếp xúc với Po Dharma và Gs. Niu Junkai ngày 14-12-2011. (Photo: Po Dharma)

Ngôn ngữ của người Chăm Hải Nam được xác định là tiếng Chăm cổ, có nhiều nét tương đồng với tiếng Chăm ở Việt Nam, đặc biệt là với tiếng Raglai và Churu. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, ngôn ngữ của họ cũng có những biến đổi nhất định.

Nét Văn Hóa Đậm Đà Bản Sắc

Ngày nay, người Chăm ở Hải Nam tập trung chủ yếu ở hai làng Huihui và Huixin, gần thành phố Sanya. Họ là cộng đồng Hồi giáo chính thống với 6 thánh đường.

Bên cạnh những ảnh hưởng của Hồi giáo, người Chăm Hải Nam vẫn gìn giữ những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc mình, thể hiện qua trang phục, ẩm thực và lối sống. Phụ nữ vẫn duy trì tục ăn trầu và mang khăn choàng đầu. Họ sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, buôn bán và xây dựng.

chamhainam 04 c5279a08Imam Chăm Hồi Giáo tại làng Huihui, Hải Nam

So với các cộng đồng Chăm khác trong khu vực, người Chăm ở Hải Nam có đời sống kinh tế phát triển hơn. Họ sở hữu khách sạn, trường học và đầu tư vào nhiều công ty xây dựng. Tuy nhiên, họ vẫn giữ gìn bản sắc riêng bằng cách duy trì một cộng đồng khép kín, chỉ dành riêng cho người Chăm.

chamhainam 05 a37c9c5cKhu chung cư của người Chăm Hồi Giáo Hải Nam (Photo: Po Dharma, 14-12-2011)

Hành trình lịch sử và văn hóa của người Chăm ở Hải Nam là minh chứng rõ nét cho khả năng thích nghi và bảo tồn bản sắc của một dân tộc. Từ những cuộc di cư đầy biến động, họ đã tạo dựng một cuộc sống mới trên hòn đảo xa xôi, đồng thời gìn giữ những giá trị văn hóa độc đáo của Champa.

Tài Liệu Tham Khảo

  • Alieva, N., F. : Morphemes in contemporary spoken Cham : qualitative and quantitatives alternations. In: Cahiers de linguistique-Asie orientale, vol. 20, n° 2, 1991, tr. 219-229.
  • Andaya L., Y. : Leaves of the same tree: Trade and Ethnicity in the Straits of Melaka. University of Hawaii Press, Honolulu, 2008.
  • Benedict, P. K. : A Cham Colony on the Island of Hainan. In: Harvard Journalof Asiatic Studies, VI, 1941, 129-134.
  • Claudine Lombard-Salmon : Les Persans à l’extrémité orientale de la route maritime (IIe A. E. -XVIIe siècle). In: Archipel, Volume 68, 2004, tr. 23-58.
  • Davidson, J. W. : The Island of Formosa Past and Present. SMC Publishing Co, 1903.
  • Ferrand, G. : L’empire soumatranais de Çrïvijaya. In : JA, XX, 1922, 1-104.
  • Gerini, G. E. : Reseaches on Ptolemy’s geography of eastern Asia (Futher India and Indo-Malay Archipelago).In: Asiatic Societies Monographs N. 1, London, 1974.
  • Haudricourt, A. : Origines asiatiques des langues malayo-polynésiennes. In: Journal de la Société des océanistes,Tome 10, 1954, tr. 180-183.
  • Haudricourt, A., G. : Tones of some languages in Hainan. In: Minzu yuwen, 4, 1984, tr. 17-25.
  • Hirth, F. et Rockhill, W. W.: Chau Ju-kua: His Work on the Chinese and Arab Trade in the twelfth andthirteenth centuries, entitled Chu-fan-chi. St-Peters-burg, 1911.
  • Kuwabara Jitsuzo : The Superintendant of the Trading Ships’ Office in Ch’uan-choutowards the end of the Sung Dynasty. In: Memoirs of the Research Department of the Тoyo Bunko, 1935, II, 1-79 ; VII, 1-104.
  • Lévy R. & Michel, A. : Ennin, Journal d’un voyageur en Chine au IXe s. Paris, 1961.
  • Marc Brunelle, M. : Tonogénèse, registrogénèse et traits laryngals binaires. In: Cahiers de linguistique-Asie orientale, vol. 28, n°1, 1999, tr. 23-52.
  • Maspero, G. : Le royaume de Champa. Paris, 1928.
  • Mohamad Zain Musa : Diaspora Melayu Cam, Persatuan Sejarah Malaysia. Kuala Lumpur, 2011.
  • Pang Keng-Fong : Being Hui, Huan-nang et Utsat simultaneously, Contextualizing History and Identities of the Austronesian-speaking Hainan Muslims. In: Melissa J. Brown (ed.): Negociating Ethnicities in China and Taiwan, China Research Monograph, Berkeley, University of California, 1996, tr. 183-207.
  • Pang Keng-Fong : The dynamics of gender, ethnicity and state among the Austronesian-speaking Muslims (Hui/Utsat) of Hainan Island, People’s Republic of China. University of California, Los Angeles, 1992.
  • Pang Keng-Fong; Maddieson, I. : Tone in Utsat. In : Tonality in Austronesian languages, Jerold A. Edmondson and Kenneth J. Gregerson (eds.): Oceanic Linguistics Special, Publication 24, Honolulu: University of Hawaii Press, 1993, tr. 75-89.
  • Pelliot, P.: Notes on Marco Polo. Paris, vol. II, 1963.
  • Po Dharma : Note sur les cam du Cambodge In : Seksa Khmer, No 3-4, 1981, tr. 161-183.
  • Sagart, L. : A new collection of descriptions of languages of China. In: Cahiers de linguistique-Asie orientale, vol. 32 n°2, 2003, tr. 287-298.
  • Savina F. M. : Monographie de Hainan. Cahiers de la Société de Géographie de Hanoi, n° 17, Hanoi, 1929.
  • Thoraval, J. : L’usage de la notion d’« ethnicité » appliquée à l’univers culturel chinois. In: Perspectives chinoises, N°54, 1999, tr. 44-59.
  • Thurgood, G. : Phan Rang Cham and Utsat: tonogenetic themes and variants. In: Jerry EDMONDSON and Ken GREGERSON (eds): Tonality in Austronesian languages, Oceanic Linguistics special publication No 24, Honolulu, University of Hawai’i Press, 1993, tr. 91-106.
  • Thurgood, G. : From Ancient Cham to modern dialects. Oceanic Linguistics special publication No 28, Honolulu, University of Hawai’i Press, 1999.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?