Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội không chỉ là những phiến đá ghi danh, mà còn là chứng nhân lịch sử, lưu giữ tinh hoa trí tuệ và truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Hành trình dựng bia, từ ý tưởng ban đầu đến những thăng trầm lịch sử, đều mang đậm dấu ấn văn hóa và giá trị tinh thần sâu sắc.
Nội dung bài viết
Khởi Nguồn Dựng Bia: Từ Hồng Đức Đến Thịnh Đức
Trái với một số ghi chép cho rằng bia Tiến sĩ được dựng từ năm 1442 dưới thời vua Lê Thái Tông, thực tế việc này bắt đầu từ năm Hồng Đức thứ 15 (1484) dưới triều vua Lê Thánh Tông. Như Lê Quý Đôn đã ghi lại trong Kiến Văn Tiểu Lục, việc lập bia lúc bấy giờ phỏng theo lối nhà Minh, nhưng có điểm khác biệt là tên quan soạn văn được khắc ở sau bài văn bia. Triều đình khi đó cho lập bia Tiến sĩ cả các khoa thi trước đó, nhưng đến nay chỉ còn lại 82 bia.
Một trong những tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội.
Thời kỳ Lê Trung hưng, việc dựng bia bị gián đoạn do nhiều biến cố lịch sử. Mãi đến khoa Bính Thân (1656), niên hiệu Thịnh Đức, triều đình mới cho truy lập bia Tiến sĩ các khoa trước. Tuy nhiên, một số khoa sau đó vẫn chưa được lập bia. Đến năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717), vua lại cho truy lập bia cho 11 khoa thi. Việc đài thọ kinh phí dựng bia được phân chia rõ ràng: các Tiến sĩ còn sống tự lo liệu, còn các khoa không còn Tiến sĩ nào tại thế thì dùng công quỹ. Những khoa về sau, lệ dựng bia do các tân Tiến sĩ tự túc, rồi xin văn bia ở triều đình.
Những Thăng Trầm Của Bia Đá Qua Lịch Sử
Trải qua hơn 300 năm của triều Lê, với hơn 100 khoa thi, chỉ có 24 năm dựng một bia, còn lại đều dựng từ hai bia trở lên. 82 bia đá hiện còn tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám ghi danh 1306 vị Tiến sĩ, từ khoa thi năm 1442 đến năm 1779. Số bia này được dựng trong nhiều đợt, tập trung vào các năm 1484 (10 bia), 1653 (25 bia), và 1717 (21 bia). Bia đầu tiên, ghi danh các Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất 1442, do Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn.
Chi tiết bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất 1442.
Thời gian và chiến tranh đã để lại dấu ấn trên những tấm bia. Nhiều bia chữ đã mờ, nhiều bia bị lắp sai rùa, nhiều bia nứt vỡ phải gắn chắp. Năm 1976, một con rùa đá để bia được khai quật tại hồ cạnh Khuê Văn Các, nâng tổng số rùa bia lên 83, mặc dù thân bia không được tìm thấy. Lần tu sửa cuối cùng diễn ra vào năm Tự Đức thứ 16 (1863) do Bố Chánh Hà Nội Lê Hữu Thanh, Tổng đốc Hà Ninh Tôn Thất Hân và Án sát Hà Nội Đặng Tá chủ trì.
Thông Điệp Từ Khắc Đá: Giá Trị Văn Hóa Và Giáo Dục
Bia Tiến sĩ không chỉ đơn thuần ghi danh, mà còn là những bài học đạo đức, luân lý gửi gắm cho hậu thế. Các bài văn bia, được soạn bởi những danh sĩ đương thời như Thân Nhân Trung, Vũ Duệ, Lê Quý Đôn, thường nhắc đến gương sáng và cả gương xấu của các trí thức thời phong kiến, nhằm khuyến khích, răn đe sĩ tử. Chúng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập, tu dưỡng, đền ơn triều đình và phụng sự nhân dân.
Bài văn bia khoa Nhâm Tuất 1442 của Thân Nhân Trung khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Ông cũng nhắn nhủ hậu thế về việc giữ gìn danh tiết, tránh sa ngã vì lợi danh. Các bia khác cũng mang thông điệp tương tự, khuyên răn sĩ tử không nên “mượn tiếng đỗ đạt để cầu no ấm”, phải “danh xứng với thực”, và luôn nỗ lực phụng sự quốc gia, dân tộc.
Kết Luận
Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là di sản văn hóa vô giá, phản ánh truyền thống hiếu học, trọng người tài của dân tộc Việt Nam. Chúng không chỉ là những bằng chứng lịch sử về khoa cử thời Lê, mà còn là nguồn tư liệu quý giá về văn học, nghệ thuật chạm khắc, và tư tưởng Nho giáo. Những thông điệp được khắc trên bia đá vẫn còn nguyên giá trị, nhắc nhở các thế hệ mai sau về ý nghĩa của việc học tập, rèn luyện đạo đức, và cống hiến cho đất nước.
Tài liệu tham khảo:
- Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quý Đôn, Bộ GD Sài Gòn, 1962.
- Tuyển tập văn bia Hà Nội, Ban Hán Nôm (UBKHXHVN), NXB KHXH, 1978.
- Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng, NXB Thanh Niên, 2000.
- Quốc Tử Giám và trí tuệ Việt, Đỗ Văn Ninh, NXB Thanh Niên, 1995.