Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước sức ép của chủ nghĩa thực dân phương Tây, các nước châu Á đã có những phản ứng khác nhau. Trong khi Việt Nam cùng nhiều nước khác lựa chọn con đường đấu tranh vũ trang nhưng thất bại, thì Nhật Bản và Xiêm (Thái Lan) lại thành công với cải cách, giữ vững độc lập và phát triển đất nước. Bài viết này so sánh trào lưu cải cách ở Xiêm và Việt Nam, phân tích nguyên nhân thành công của Xiêm và lý do thất bại của Việt Nam, từ đó rút ra những bài học lịch sử quý báu.
Bối cảnh Hình thành Trào lưu Cải cách
Sự hình thành triều đại Chakri và triều Nguyễn
Triều đại Chakri ở Xiêm (1782) và triều Nguyễn ở Việt Nam (1802) đều trải qua quá trình lịch sử lâu dài. Xiêm, sau khi vương triều Ayudhya bị Miến Điện tàn phá, đã chứng kiến sự nổi lên của Taksin, người gốc Hoa, lãnh đạo phong trào kháng chiến. Sau đó, Chao Phya Chakri lên ngôi, mở ra triều đại Chakri. Các vua Rama từ I đến V đã dẫn dắt Xiêm tiến hành cải cách. Sự ổn định chính trị của Xiêm phần lớn nhờ vào mối quan hệ hài hòa giữa vua và tầng lớp quý tộc, cùng với chính sách tiếp thu uyển chuyển các yếu tố bên ngoài.
Hình: Vua Chulalongkorn và gia đình, ăn vận theo thời trang thời kỳ Victoria.
Việt Nam, sau ngàn năm Bắc thuộc, giành độc lập năm 939, lại liên tục đối mặt với các cuộc xâm lược từ phương Bắc. Các triều đại Trung Hoa, dù là mối đe dọa, nhưng cũng ảnh hưởng sâu sắc đến chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam. Triều Nguyễn, kế thừa hệ thống cai trị kiểu Trung Hoa, lại thiếu tính chính thống, đối mặt với nhiều cuộc khởi nghĩa phản kháng trong nước.
Cơ cấu kinh tế
Xiêm, với vị trí địa lý thuận lợi, kinh đô Bangkok là một thương cảng quốc tế sầm uất. Việc mở cửa nền kinh tế năm 1855 đã biến Bangkok thành trung tâm thương mại khu vực, thu hút đông đảo thương nhân và người Hoa nhập cư, thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính sách bảo hộ hoạt động kinh doanh của Hoa kiều, đổi lại bằng việc chia sẻ lợi nhuận cho quan lại, là mối quan hệ cộng sinh, góp phần vào thành công của cải cách.
Trái ngược với Xiêm, triều Nguyễn theo đuổi chính sách “trọng nông ức thương”, kìm hãm sản xuất. Chính sách độc quyền trong nội thương và ngoại thương, cùng với thủ tục rườm rà và tham nhũng, đã khiến nền kinh tế Việt Nam trì trệ, lạc hậu.
Cơ cấu xã hội
Xã hội Xiêm có tính chất mở, không bị ràng buộc bởi huyết thống hay địa lý. Nhà vua là chủ sở hữu ruộng đất, mọi người đều có quyền canh tác, không hình thành quan hệ lệ thuộc như chế độ phong kiến.
Ngược lại, xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn bị ràng buộc bởi Nho giáo, phân chia thứ bậc nghiêm ngặt. Tầng lớp sĩ phu, dù có học thức, lại gắn liền với triều đình, bảo thủ, không thúc đẩy xã hội tiến bộ. Nông dân bị trói buộc bởi giáo lý Nho giáo và hương ước, khiến xã hội trì trệ.
Cơ sở văn hóa giáo dục
Giáo dục Thái Lan kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và tiếp thu tinh hoa bên ngoài. Đạo Phật là động lực phát triển xã hội, chùa chiền là trung tâm học thuật và văn hóa. Vua Mongkut (Rama IV) am hiểu tiếng Anh và khoa học phương Tây, có cái nhìn phê phán đối với văn hóa bản địa, tạo điều kiện cho sự tiếp thu tri thức mới.
Giáo dục Việt Nam dưới triều Nguyễn lại tập trung vào đào tạo quan lại phục vụ triều đình. Nội dung giảng dạy Nho giáo sáo rỗng, xa rời thực tế. Mặc dù các nhà canh tân như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ đã chỉ ra sự bất cập của nền giáo dục, nhưng không được triều đình chấp nhận.
So sánh Trào lưu Cải cách
Tiến trình và lực lượng cải cách
Cải cách ở Xiêm là một quá trình chủ động, từng bước, do các vua Rama dẫn dắt. Vua Chulalongkorn (Rama V) bãi bỏ tục quỳ lạy, xóa bỏ chế độ nô lệ, mở rộng quyền kiểm soát của chính quyền trung ương. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình cải cách.
Ở Việt Nam, tư tưởng cải cách chỉ xuất hiện ở một số ít quan lại, sĩ phu như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ. Những đề nghị cải cách này không được triều đình ủng hộ, chưa tạo thành phong trào rộng khắp.
Phản ứng với thế lực bên ngoài
Xiêm thực hiện “ngoại giao lựa chọn”, giữ thái độ trung lập, cân bằng giữa Anh và Pháp, tận dụng mâu thuẫn giữa các cường quốc để duy trì độc lập và đạt được lợi ích tối đa.
Việt Nam lại chọn chính sách đóng cửa, bế quan tỏa cảng, hạn chế giao thương với phương Tây. Sự thiếu hiểu biết về tình hình thế giới, khả năng phán đoán kém và ứng xử bất cập đã khiến Việt Nam rơi vào thế bị động.
Kết luận
Sự thành công của cải cách ở Xiêm và thất bại của canh tân ở Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Xiêm có nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi hơn; tầng lớp lãnh đạo chủ động, có tầm nhìn xa; ngoại giao khôn khéo. Việt Nam lại thiếu những điều kiện này, triều đình bảo thủ, lạc hậu, dẫn đến thất bại. Bài học lịch sử cho thấy, trước những biến động của thời cuộc, cần phải có sự đổi mới, c openness, chủ động hội nhập quốc tế để bảo vệ độc lập và phát triển đất nước.
Tài liệu tham khảo
- Phạm Nguyên Long, Nguyễn Tương Lai (chủ biên), Lịch sử Thái Lan, NXB KHXH, Hà Nội 1998.
- H. Mouhot, Travels in the Central Parts of Indochina (Siam), Cambodia and Laos During the Years 1858, 1859 and 1860, London 1964.
- J. Bowring, The Kingdom and People of Siam with a Narrative of the Mission to that Country in 1855, Vol.1, London 1857.
- D. Steinberg, In Search.
- M. Pallegoix, Description, Vol.1.
- Những vấn đề văn hoá xã hội thời Nguyễn, NXB KHXH, Hà Nội 1992.
- Đại Nam thực lục Chính biên, T.28, NXB KHXH, Hà Nội 1973.
- Thành Thế Vỹ, Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, NXB Sử học, Hà Nội 1961.
- A. Woodside, Vietnam and the Chinese Model, Harvard University Press 1988.
- Nguyễn Hồng Phong, Văn hoá chính trị Việt Nam – Truyền thông và hiện đại, NXB VHTT, Hà Nội.
- Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Ban KHXH Thành uỷ Tp HCM 1990.
- Wapola Rahula, History of Buddhism in Ceylon: The Anuradhapura Period, 3rd Century BC-10th Century AC, Colombo 1956.
- Nguyễn Quốc Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, NXB VHTT, Hà Nội 1994.
- Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ Con người và di cảo, NXB Tp HCM 1988.
- Nhóm Trà Lĩnh, Đặng Huy Trứ – Con người và Tác phẩm, NXB Tp HCM, 1990.
- Chulalongkorn, The Great, The Centre for East Asian Cultural Studies, Tokyo 1965.
- Lê Thị Lan, Tư tưởng cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, NXB KHXH, Hà Nội 2002.
- Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Lộ Trạch và di thảo, NXB KHXH, Hà Nội 1995.
- Tanaka Tadaharu, Thái Lan là thế đó.
- Rebrikova N.V., Otrerki.