Một sáng chủ nhật tháng 7 năm 1989, tại dinh thự cũ của đại sứ Anh ở số 261 Điện Biên Phủ, Sài Gòn, nhà báo Mỹ Neil Sheehan có dịp diện kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Không xe hộ tống ồn ào, không phô trương quyền lực, ông Linh đến trong một chiếc Lada khiêm tốn, chỉ có một cận vệ duy nhất. Hình ảnh ấy phần nào phản ánh con người và phong cách lãnh đạo của ông – giản dị, thực tế, không màng hư danh sau hàng chục năm hoạt động cách mạng đầy gian khổ. Từ 12 năm trong ngục tù của Pháp, 30 năm chiến tranh khốc liệt đến một thập kỷ đấu tranh chính trị nội bộ, ông Linh đã trải qua muôn ngàn thử thách để đưa đất nước bước vào một con đường mới giữa những biến động của thời bình.
Nội dung
Từ “Mười Cúc” đến Tổng Bí Thư
Ít ai biết rằng trước năm 1975, Nguyễn Văn Linh là một cái tên khá mờ nhạt, ngay cả với giới tình báo Mỹ. Sinh ra tại Hà Nội ngày 1/7/1915 với tên thật là Nguyễn Văn Cúc, ông sử dụng hàng loạt bí danh như Mười, Mười Cúc, Mười Út, Bửu Cúc, Rau, Bảy… để che giấu thân phận trong quá trình hoạt động cách mạng. Khác với nhiều lãnh đạo cùng thời xuất thân từ gia đình quan lại, cha mẹ ông Linh là công chức trong chính quyền Pháp. Tinh thần yêu nước đã thôi thúc ông tham gia các hoạt động bí mật từ khi còn rất trẻ. Năm 14 tuổi, ông bị bắt vì phát truyền đơn chống Pháp và bị kết án 10 năm tù ở Côn Đảo.
Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, tháng 1/1989. Ảnh: Xuân Lâm / TTXVN
Chính tại “Trường đại học cách mạng” Côn Đảo, Nguyễn Văn Linh đã được hun đúc lý tưởng cộng sản, không phải từ Marx mà từ Victor Hugo và tác phẩm Những người khốn khổ. Hình ảnh Jean Valjean đã chạm đến trái tim người thanh niên trẻ tuổi, khơi dậy trong ông khát vọng về một xã hội công bằng. Cũng tại đây, ông được Phạm Văn Đồng, một người bạn tù, dìu dắt về tư tưởng Mác-Lênin và tiếng Pháp.
“Cán Bộ Mùa Đông” và Kháng Chiến Gian Khổ
Được trả tự do năm 1936, Nguyễn Văn Linh gia nhập Đảng Cộng sản và tiếp tục hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, ông lại bị bắt và trở lại Côn Đảo khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, ông được giải phóng và bắt đầu 30 năm hoạt động bí mật đầy nguy hiểm tại miền Nam. Trong khi nhiều đồng đội tập kết ra Bắc sau Hiệp định Geneva 1954, ông Linh là một trong những “cán bộ mùa đông” ở lại miền Nam, lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị.
Ông Nguyễn Văn Linh tham dự một hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương năm 1947. Ảnh tư liệu
Ông Linh đã sống sót qua những năm tháng kinh hoàng của chiến dịch Tố Cộng dưới thời Ngô Đình Diệm và những thử thách gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ký ức về những trận bom B-52, những lần suýt bị bắt vẫn in đậm trong tâm trí ông. Trong số hàng ngàn cán bộ ở lại miền Nam năm 1954, chỉ có một phần nhỏ sống sót. Vượt qua tất cả, Nguyễn Văn Linh vẫn giữ được tinh thần lạc quan, khiếu hài hước và tư duy dám nghĩ dám làm.
Đổi Mới – Từ “Chiến Tranh Du Kích Kinh Tế” đến Đổi Mới
Năm 1978, ông Linh được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa cho miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, những quan điểm cởi mở của ông về kinh tế đã vấp phải sự phản đối từ giới lãnh đạo. Ông ủng hộ nền kinh tế hỗn hợp, cho phép các nhà tư bản yêu nước giữ lại cơ sở sản xuất và phản đối việc tập thể hóa nông nghiệp. Những tư tưởng này bị cho là “cánh hữu”, khiến ông bị đẩy ra khỏi Bộ Chính trị năm 1982 và được điều về làm Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh.
Ông Nguyễn Văn Linh làm việc tại Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, ngày mùng 5 Tết Ất Mão (1975). Ảnh tư liệu
Tại Sài Gòn, ông Linh bắt đầu “chiến tranh du kích kinh tế”, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tự chủ và ủng hộ kinh tế tư nhân. Những nỗ lực của ông, cùng với sự sa sút của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đã góp phần thúc đẩy phong trào đổi mới. Sau khi Lê Duẩn qua đời, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư tại Đại hội Đảng VI năm 1986.
Ông Nguyễn Văn Linh, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nói chuyện với các giám đốc xí nghiệp dự Hội thảo Câu lạc bộ Giám đốc lần thứ nhất, ngày 15 tháng 9 năm 1984. Ảnh tư liệu
Gorbachev của Việt Nam và Những Năm Tháng Cuối Đời
Nguyễn Văn Linh được ví như Gorbachev của Việt Nam. Ông là người trong hệ thống nhưng không bị hệ thống ràng buộc, dám nghĩ dám làm và kiên định với mục tiêu “chủ nghĩa xã hội là thịnh vượng”. Ông hiểu rõ những khó khăn của đất nước và sẵn sàng chấp nhận rủi ro để đạt được mục tiêu đổi mới. Tuy nhiên, sức khỏe của ông đã suy yếu sau ca phẫu thuật ung thư năm 1988.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các đại biểu dự Đại hội Đảng VI – Đại hội Đổi mới của Việt Nam. Ảnh: TTXVN
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm xí nghiệp may tư nhân Minh Châu trong chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, năm 1987. Ảnh tư liệu
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói chuyện với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ – Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1/1989). Ảnh: TTXVN
Ông Linh đã không tái tranh cử tại Đại hội VII năm 1991. Tuy lui về nghỉ dưỡng, ông tin rằng mình đã đặt nền móng cho công cuộc đổi mới, đưa đất nước vào một con đường không thể đảo ngược. Những năm cuối đời, ông sống giản dị bên gia đình, duy trì thói quen tập thái cực quyền mỗi sáng.
Ông Nguyễn Văn Linh (thứ ba từ trái sang) tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Ảnh tư liệu
Kết luận: Cuộc đời và sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là tấm gương sáng về lòng yêu nước, tinh thần dấn thân vì lý tưởng cách mạng và tư duy đổi mới sáng tạo. Từ một người chiến sĩ cách mạng kiên trung, ông đã trở thành kiến trúc sư của công cuộc đổi mới, mở ra một chương mới trong lịch sử Việt Nam.