Cuối thế kỷ XVIII, triều Tây Sơn trải qua những biến động dữ dội. Sau khi vua Quang Trung băng hà năm 1792, Cảnh Thịnh lên ngôi khi mới 10 tuổi. Quyền lực tập trung vào tay Thái sư Bùi Đắc Tuyên, dẫn đến những mâu thuẫn nội bộ gay gắt. Trong bối cảnh đầy biến động ấy, hai danh sĩ lỗi lạc là Ngô Thì Nhậm (1746-1803) và Phan Huy Ích (1751-1822) chọn con đường ẩn cư. Ngô Thì Nhậm lui về Trúc Lâm thiền viện, lấy hiệu là Hải Lượng thiền sư, chuyên tâm nghiên cứu Phật học và được tôn xưng là Trúc Lâm Đệ Tứ Tổ. Phan Huy Ích ẩn cư tại Bảo Chân quán ở Thăng Long, xưng là Bảo Chân đạo sĩ, chuyên tâm nghiên cứu Đạo giáo.
cuc thu bach vinh.jpg
Tuy ẩn cư, nhưng hai ông vẫn đau đáu nỗi niềm thế sự và duy trì mối giao hảo tri âm tri kỷ. Tập thơ Cúc Thu Bách Vịnh ra đời như minh chứng cho mối giao duyên độc đáo giữa thiền sư và đạo sĩ. Tập thơ gồm 50 bài thơ Đường luật, được Phan Huy Ích sáng tác vào năm 1796. Điều đặc biệt là mỗi bài thơ đều có phần nguyên dẫn, ghi lại lời đối thoại, trao đổi thơ văn giữa hai ông. Qua những lời đối đáp hóm hỉnh, thâm thúy, ta thấy được tâm hồn thanh cao, uyên bác của hai bậc danh nho, đồng thời cảm nhận được bức tranh sinh động về đời sống tinh thần của giới trí thức thời bấy giờ.
Thơ Xướng Họa: Tiếng Lòng Tri Âm
Tập thơ Cúc Thu Bách Vịnh mở đầu bằng những bài thơ xướng họa giữa hai ông nhân dịp tết Trùng Dương (9/9 âm lịch). Phan Huy Ích do bệnh tật nên không thể đến dự tiệc rượu cúc tại đình Thưởng Liên của Ngô Thì Nhậm, bèn làm thơ gửi tặng.
Bài 1
Lãng đãng thu dung đến họa đường,
Sen tàn liễu yếu ánh hồ vương.
Uyên Minh rượu uống cùng nâng chén,
Tiểu Đỗ thơ ngâm nga mấy chương.
Tóc tuyết điểm đầu già sợ cảnh,
Hoa vàng khắp chốn tiết Trùng Dương.
Mùi Thiền rừng trúc ưa thanh vắng,
Xin hỏi Sư ông cách dưỡng thân.
Phan Huy Ích mượn điển tích Uyên Minh (Đào Tiềm) uống rượu ngắm cúc, Tiểu Đỗ (Đỗ Mục) làm thơ châm biếm để thể hiện tâm trạng ngao ngán trước thời cuộc. Ông tự ví mình như “tóc tuyết điểm đầu”, lo sợ cảnh già yếu, đồng thời bày tỏ sự ngưỡng mộ với cuộc sống thanh tịnh nơi thiền môn của Hải Lượng thiền sư.
Nhận được thơ của Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm cũng họa lại một bài, vừa đáp lại lời thăm hỏi, vừa khéo léo bày tỏ quan điểm về cuộc đời.
Bài 2
Bóng trăng thấp thoáng chiếu lầu trang,
Phơ phất cờ lau ao góc vườn.
Đếm tháng ngày qua càng ngắm cảnh,
Ngẫm lời Kinh Dịch đức Hàm Chương.
Say ca đâu mãi khoe đời sướng,
Râu tóc cảm buồn bóng tịch dương.
Thân chữa tới Thiền nào lánh tục.
Muốn chữa cuồng si chẳng biết phương.
Ngô Thì Nhậm mượn hình ảnh “cờ lau” – biểu tượng của triều Tây Sơn để thể hiện lòng tự hào về triều đại. Ông khẳng định cuộc sống ẩn cư không phải là cách để trốn tránh thế sự, mà là để “ngẫm lời Kinh Dịch đức Hàm Chương”, giữ gìn phẩm giá thanh cao của bậc trí thức.
Mối giao duyên thơ văn giữa hai ông tiếp tục qua những bài thơ họa về tiệc thọ, về việc tu dưỡng, về đạo lý Nho – Phật. Phan Huy Ích khiêm tốn tự nhận mình “chưa cùng thi áo cận thăng đường”, còn đang ở “ngoài rào” của thi ca, mong được học hỏi từ bậc “đại sĩ kỳ văn” như Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Nhậm thì khẳng định “nghìn thuở Nho gia tán Phật đường” chỉ là do “mang mang tinh uẩn”, chưa thấu hiểu đạo lý thâm sâu.
Dấu Ấn Thời Cuộc
Xen lẫn những vần thơ tao nhã, Cúc Thu Bách Vịnh còn ghi dấu ấn của một thời kỳ lịch sử đầy biến động. Trong bài 27, Phan Huy Ích bộc lộ nỗi niềm tiếc thương vua Quang Trung – vị minh quân mà ông hết lòng ngưỡng mộ:
Mang phận bút nghiên cung điện vua,
Giọt đồng chầm chậm ngân đường đưa.
Ngự diên dạ triệt kim liên trúc,
Tư viện tình canh Bạch Tuyết thơ.
Khoáng thế tao phùng giao đắc vũ,
Minh đình giảng hoạch phượng minh dương.
Kinh Sơn bất thị long lai tảo,
Yếu ngã huy hào tảo bút phương.
Ông tự hào khi được tham gia vào công việc triều chính dưới thời Quang Trung, được “luận bàn triều chính phượng minh dương”. Đặc biệt, hai câu kết thể hiện rõ hùng tâm tráng chí của Phan Huy Ích:
Kinh sơn nếu chẳng Rồng khuất núi,
Quét bút tám phương cần ta thôi.
Nếu vua Quang Trung còn sống, ông nguyện dốc hết tài năng để “quét bút tám phương”, xây dựng đất nước thái bình thịnh trị.
Nỗi niềm tiếc thương vua Quang Trung cũng được thể hiện qua bài thơ 28:
Gõ cửa cung mây vào điện đài,
Ruổi rong cỡi ngựa mãi đường dài.
Thừa minh Tuyên thất nơi lui tới,
Thiên bảo, Quyền a tấu đối chương.
Lũy Thầy gió cát liền Nhật Lệ,
Hương hà triều lịch tự Thai Dương.
Quân thiều nay chỉ còn trong mộng,
Nhớ mỹ nhân xa một góc trời.
Phan Huy Ích nhớ lại những ngày tháng được vua Quang Trung trọng dụng, được tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Nay “quân thiều nay chỉ còn trong mộng”, ông chỉ còn biết gửi gắm nỗi niềm tiếc thương vào những vần thơ.
Hồ Dương Ngũ Lộng: Góc Nhìn Mới Về Đạo Lý
Một phần đặc sắc của Cúc Thu Bách Vịnh là năm bài thơ “Hồ Dương ngũ lộng” (Đùa trăng, Đùa hoa, Đùa với gương, Đùa với nghề dệt, Đùa với cây đàn) và ba bài thơ “Tâm đắc” (Thơ vịnh mắt, Thơ vịnh tai, Thơ vịnh mũi). Đây là những bài thơ mang tính triết lý, bàn luận về đạo lý và sự vật. Phan Huy Ích đã mượn hình ảnh người đẹp “Hồ Dương” để diễn đạt những suy tư về cuộc đời, về con người và vũ trụ.
Ngô Thì Nhậm khen ngợi “năm bài cảm hoài của nàng Hồ Dương” đã “tả được cái u trầm của người đẹp”, đồng thời khẳng định “thơ có thể nói được nỗi niềm ai oán thế”. Phan Huy Ích tiếp nối ý tưởng đó, sáng tác “năm thú đùa của nàng Hồ Dương”, “đem hết ý thương hương, tiếc ngọc điểm xuyết ra từng tầng từng lớp”.
Bài 17: Đùa Trăng
Trăng bạc chiếu soi nhà gấm vóc,
Ánh trăng vằng vặc sáng trong ao.
Tiếng thu giục giã năm canh mộng,
Trời đẹp sắc mây chín lớp cao.
Chiếc bóng bồi hồi nhàn rũ mộng,
Trăng tàn le lói ánh mai vào,
Nỗi sầu muốn tỏ cùng cung nguyệt,
Ai biết chị Hằng trốn chỗ nào ?
Hình ảnh “trăng bạc”, “ánh trăng vằng vặc” tạo nên một không gian tĩnh mịch, u buồn. “Tiếng thu giục giã năm canh mộng” như tiếng thời gian trôi chảy, khiến lòng người thêm bàng hoàng, tiếc nuối.
Bài 20: Đùa Với Nghề Dệt
Khung dệt gấm bày nhà thảnh thơi,
Ao mưa sầm sập tiếng đưa thoi.
Dấu đá Chi Cơ xem khó bói,
Tứ mới Hồi Văn ngại viết lời.
Ngày kéo sầu dài Tây Lục xứ,
Gió đưa chuông lạnh Cảnh Dương đài.
Buồn Sao Chức Nữ khi hoang vắng,
Man mác Ngưu Lang biết hỏi ai ?
Hình ảnh “khung dệt gấm” tượng trưng cho cuộc sống yên bình, nhưng ẩn chứa bên trong là nỗi sầu “ngày kéo sầu dài Tây Lục xứ”. Điển tích “đá Chi Cơ” và “Hồi Văn” thể hiện sự bế tắc, khó khăn trong việc tìm kiếm hạnh phúc.
Ba bài thơ “Tâm đắc” tiếp nối ý tưởng của “Hồ Dương ngũ lộng”, bàn luận về đạo lý và sự vật, nhưng ở một cấp độ sâu sắc hơn.
Bài 22: Thơ Vịnh Mắt
Trăng như gương vẽ soi nhà trống,
Ánh sáng trong soi sáng đáy hồ.
Bóng quế đẹp tròn trăng tỏa bóng,
Hoa lăng lóng lánh bút nên thơ.
Ánh soi vách phấn người in bóng,
Đêm lạnh màn the sáng tỏa mờ.
Ước bạn phượng loan nâng chén ngọc,
Văn chương lễ mạo sóng thu ba.
Mắt là cửa sổ tâm hồn, là nơi tiếp nhận ánh sáng và hình ảnh của thế giới bên ngoài. Phan Huy Ích mượn hình ảnh “trăng như gương vẽ”, “ánh sáng trong soi”, “bóng quế đẹp tròn”, “hoa lăng lóng lánh” để ca ngợi vẻ đẹp của tạo vật và sự tinh tế của con mắt.
Bài 23: Thơ Vịnh Tai
Cung đàn cữi dệt bạn thanh nhàn,
Lối nhỏ âm thanh quanh quất vang.
Tiếng động thoi ô thêu vẽ gấm,
Giấy điều lục ý họa ca soang.
Tù và lạnh vắng kêu trong điếm,
Vàng gió hắt hiu chiều bóng loang,
Cầm sắt ước gì hòa nối nhịp,
Gió đưa vang khúc tính tình tang.
Tai là nơi tiếp nhận âm thanh, là cầu nối con người với thế giới xung quanh. Phan Huy Ích mượn hình ảnh “cung đàn cữi dệt”, “tiếng động thoi ô”, “giấy điều lục ý”, “tù và lạnh vắng” để mô tả sự đa dạng của âm thanh và khả năng cảm thụ tinh tế của tai.
Bài 24: Thơ Vịnh Mũi
Không sức đùa hoa đứng tựa hiên,
Thở hương thơm ngát cạnh ao vườn.
Hồng non, lục trẻ mùi khuê các,
Lý đẹp, đào giòn rạng gia chương.
Giấc hải đường mơ Phi Tử tỉnh,
Nét mai trang điểm Thọ Dương xinh.
Đồng tâm tình bạn hoa lan quý,
Cuộc sống ngát thơm gió đưa hương.
Mũi là nơi tiếp nhận hương thơm, là giác quan kết nối con người với thế giới tự nhiên. Phan Huy Ích mượn hình ảnh “hồng non, lục trẻ”, “lý đẹp, đào giòn”, “giấc hải đường”, “nét mai trang điểm”, “hoa lan” để ca ngợi vẻ đẹp và sự phong phú của hương thơm.
Kết Luận
Tập thơ Cúc Thu Bách Vịnh là một tác phẩm văn học chữ Hán đặc sắc của Việt Nam. Thơ xướng họa, điển tích, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, ý tứ sâu xa, tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về đời sống tinh thần của giới trí thức Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Tập thơ không chỉ là minh chứng cho tình bạn tri kỷ giữa hai bậc danh nho, mà còn phản ánh những chuyển biến trong tư tưởng Nho giáo và Phật giáo, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học nước nhà.