Cuối mùa thu năm Ất Mùi 1835, sau kỳ thi hương tại Phúc Kiến, Thái Đình Lan lên đường trở về phương Nam. Đến Hạ Môn, còn gọi là Lộ Đảo, đúng dịp sinh nhật của người thầy kính mến, Quan sát Chu Vân Cao, khi ấy đang nhậm chức tại đạo Hưng Tuyền Vĩnh, trú tiết tại Hạ Môn. Cùng các môn sinh khác, Lan đến chúc thọ thầy, yến tiệc linh đình kéo dài nhiều ngày. Sau đó, ông vượt biển đến Kim Môn, hòn đảo phía đông Hạ Môn, thăm nhà thờ tổ tiên. Từ Liệu La, một vọng gác phía đông nam đảo Kim Môn, Lan tìm thuyền về Bành Hồ thăm mẹ già rồi sẽ đến Đài Loan, nơi ông đang làm giảng viên tại thư viện Dẫn Tâm. Chặng đường về tưởng chừng chỉ mười ngày ngắn ngủi, nào ngờ lại trở thành một hành trình sinh tử đầy sóng gió.
Khởi Hành và Dấu Hiệu Bão Táp
Ngày mồng 2 tháng 10 năm Ất Mùi (tức 21/11/1835), người phu thuyền đến giục, Lan cùng em trai Đình Dương và tùy tùng vội vã ra bờ biển thì thuyền đã nhổ neo, dương buồm ra khơi. Họ phải gọi thuyền nhỏ, chèo gấp mới kịp. Khi ấy, mặt trời đã khuất bóng về tây, phía đông nam mây đen vần vũ trên biển, biến ảo khôn lường rồi dần tan biến. Đêm xuống, sao trời lấp lánh, ánh sáng lập lòe như báo hiệu điềm chẳng lành. Lan nhận thấy dấu hiệu của bão tố, khuyên người coi thuyền nên hoãn việc ra khơi, nhưng chủ thuyền không nghe. Nhìn quanh, ba bốn chiếc thuyền khác cũng đã rời bến. Cảm thấy choáng váng, Lan vào khoang thuyền, đắp chăn nằm, mặc kệ con thuyền lênh đênh trên biển cả.
Cuồng Phong Nổi Dậy
Khoảng canh ba (từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng), gió rít lên từng cơn, đáy thuyền va vào sóng nước ầm ầm, con thuyền rung lắc dữ dội. Ban đầu, mọi người còn tưởng đó chỉ là sóng gió thường thấy trên biển cả nên không mấy để tâm. Thời gian trôi qua, hai canh hương đã cháy hết, Lan ước tính đã qua Hắc Câu, vùng nước sâu và đen, chảy xiết về phía đông. Bình minh sắp ló dạng, hy vọng cập bến cũng gần kề. Nhưng thuyền càng đi nhanh, sóng càng dâng cao, cuồng phong nổi lên.
Giữa Tâm Bão Tố
Những đám mây đen từ phía tây bắc nhanh chóng lan ra khắp bốn phương trời, cuồng phong gào thét, sóng biển dâng trào, con thuyền nghiêng ngả như sắp lật úp. Trong khoang thuyền, Lan bị xô đẩy, quay cuồng, không thể ngồi cũng chẳng thể nằm. Bỗng nghe tiếng người phu thuyền hô lớn: “Đông hướng sắp đến gần bờ, mau chuyển lái quay lại!”. Gió mỗi lúc một mạnh, bánh lái bị kẹt dưới nước, hơn mười người hợp sức đẩy cũng không nhúc nhích. Thuyền trưởng ra lệnh hạ buồm, vứt bỏ hàng hóa xuống biển, mong con thuyền nhẹ bớt để có thể di chuyển.
Trời đã sáng, bốn bề mênh mông sóng nước, những đợt sóng cao như núi, con thuyền nhỏ bé chòng chành giữa trùng khơi. Kim chỉ nam vẫn chỉ hướng đông nam, nhưng không ai biết mình đang ở đâu giữa đại dương bao la. Ba ngày trôi qua trong sợ hãi và tuyệt vọng.
Sinh Tử Ở Đầu Sóng Ngọn Gió
Người phu thuyền lo lắng bàn bạc: “Nếu may mắn đến được Tiêm La hoặc Lữ Tống thì còn có ngày về. Nếu trôi vào dòng chảy xiết Nam Áo Khí, rồi bị cuốn vào Thiên Lý Thạch Đường, Vạn Lý Trường Sa ở phía nam Đài Hải thì chúng ta khó thoát khỏi kiếp nạn này!”.
Tranh thủ lúc gió lặng sóng êm, mọi người nhóm lửa nấu cơm, ăn cho thật no. Bất chợt, gió đổi hướng đông bắc, gào rít dữ dội, sấm chớp đùng đùng, mưa như trút nước. Mọi người ướt sũng từ đầu đến chân, lạnh thấu xương. Bỗng một con sóng lớn ập đến, đập vào mạn thuyền như núi lở, con thuyền chìm nghỉm rồi lại nhô lên. Mái thuyền vỡ tan, nước tràn vào khoang. Lan ngã xuống biển, tưởng chừng không thể sống sót. Em trai ông vội ném dây xuống, vừa khóc vừa kéo Lan lên thuyền. Mọi người gào khóc thảm thiết. Lan trấn tĩnh nói với thuyền trưởng: “Khóc lóc cũng vô ích, mau chặt cột buồm lớn đi!”. Cột buồm gãy đổ xuống biển, con thuyền mới dần ổn định, trôi nổi lênh đênh theo sóng nước.
Tuyệt Vọng và Hy Vọng
Nước ngọt trong hầm gần cạn, mọi người phải bịt kín lại, tiết kiệm từng giọt. Sáng chiều, họ chỉ ăn khoai luộc bằng nước biển. Lan nóng lòng vì thiếu nước, mỗi ngày chỉ ăn được nửa củ khoai nhưng cũng quên cả đói khát.
Bốn năm ngày sau, những cánh chim trắng bay lượn trên bầu trời. Màu nước biển chuyển dần từ đen sẫm sang xanh nhạt, báo hiệu đất liền đã gần. Khi mặt trời sắp lặn, xa xa thấp thoáng một dải đen mờ ảo, nối liền với mặt nước, trông giống như một dãy núi. Sáng hôm sau, sương tan, cảnh núi non hiện ra rõ ràng trước mắt. Cách thuyền khoảng một dặm là ba hòn đảo nhỏ với cây cối xanh tươi, bên cạnh là một dãy núi đá cao sừng sững, trông thật hiểm trở. Thuyền theo dòng thủy triều len lỏi vào giữa các đảo, thấy những chiếc thuyền giáp bản của dân phiên qua lại tấp nập. Nhìn kỹ cửa khẩu, nơi có nhiều cột buồm neo đậu, Lan biết đó là một cảng lớn. Cả thuyền reo hò vui mừng, quỳ xuống tạ ơn trời đất.
Cảng Bình An
Buổi chiều, những cơn mưa nhỏ lác đác rồi mây đen kéo đến, gió mưa càng lúc càng mạnh. Trời đất mù mịt, rừng núi chìm trong bóng tối. Thủy triều dâng cao, sóng gió nổi lên, mũi thuyền đập vào sóng nước ầm ầm như sấm dậy. Mọi người lo sợ thuyền sẽ mắc cạn, ai nấy đều tìm cách thoát thân. Lan nghĩ rằng mình sẽ bỏ mạng nơi đây, bèn nắm chặt tay em trai, ngồi chờ đợi số phận. Không ngờ, một lúc sau, gió ngừng, mưa tạnh, sóng yên biển lặng. Lan nhoài người ra khỏi khoang thuyền, thấy trăng lên cao ở phía đông, soi sáng cả một vùng biển đêm. Nhìn kỹ, Lan thấy dãy núi vòng cung từ nam chí bắc, hình thế có vẻ an toàn nên thả duyên chung xuống thử. Thấy nước sâu hai ba trượng, dưới đáy là cát mịn, Lan liền thả neo, cho thuyền neo đậu. Tính ra, hôm đó là ngày 11 tháng 10 năm Ất Mùi (tức 30/11/1835).
Sáng sớm, một chiếc thuyền đánh cá đi ngang qua. Lan gọi hỏi nhưng không hiểu tiếng, chỉ viết được hai chữ “An Nam”. Chốc lát sau, một chiếc thuyền nhỏ khác đến gần, trong đó có một người nói được tiếng Hoa. Người này lên thuyền, ngạc nhiên hỏi: “Khách từ Trung Quốc đến ư? Không biết cảng, biết đường, làm sao đến được đây?”. Mọi người kể lại câu chuyện, người đó lắc đầu kinh hãi: “Nếu không có thần linh phù hộ thì làm sao sống sót! Hòn đảo nhỏ vừa qua chính là đảo Chiêm Tất La, phía đông tây đảo nước chảy xiết, có một bến cảng nhỏ, phải chờ thủy triều lên mới vào được, nếu không sẽ đâm vào đá ngầm. Từ phía tây xuống nam có thể vào cảng, nhưng thuyền này không còn cột buồm, ngược dòng không thể vào được. Từ đông tây đến đó rất hiểm trở, dưới biển có nhiều đá ngầm, cát ngầm kéo dài hàng chục dặm, đường vào cảng lại quanh co, ngay cả ngư dân địa phương cũng không rành hết, nếu thuyền lỡ đụng vào sẽ tan nát!”. Lan nghe mà rùng mình sợ hãi.
Thiên Ý và Lòng Người
Lan nghĩ, từ nhỏ sống ở Bành Hồ, đã nhiều lần vượt biển, đều thuận buồm xuôi gió, chưa bao giờ gặp phải sóng gió kinh hoàng như thế này. Lần này thoát chết trong gang tấc, trôi dạt đến nơi xa lạ, không biết có phải là thiên ý an bài, để ông có dịp mở mang kiến thức ở nước ngoài? Nghĩ vậy, lòng cũng thấy nhẹ nhõm.
Mọi người ăn điểm tâm xong, lại ăn thêm cho no, ngồi sưởi nắng cho khô quần áo. Dù đã thoát nạn nhưng nước mắt vẫn chưa khô. Lan ghi lại sự kiện này để ghi nhớ một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời. Thầy Chu Vân Cao khi đọc bài viết này đã nhận xét: “Tả cảnh nguy hiểm, cùng cực kinh hãi, mỗi điều đều lột tả hết sức chân thực. Đoạn cuối bộc lộ tâm tư, càng khiến người đọc hiểu được con người của tác giả”.
Tài Liệu Tham Khảo
- Thái Đình Lan, Thương Minh Kỷ Hiểm [滄溟紀險]. Biên dịch: Hồ Bạch Thảo.
Phụ Lục
Chú thích:
[1]: 1 trượng = 3,2 mét.
[2]: Chiêm Tất La: Hòn đảo nhỏ thuộc huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi; khác với Chiêm Bất Lao tức Cù Lao Chàm thuộc tỉnh Quảng Nam.
[3]: Bình luận của Chu Vân Cao về bài viết Thương Minh Kỷ Hiểm.