Miền Bắc Việt Nam đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho viễn cảnh chiến tranh leo thang. Không phải vì Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn điều này, mà bởi ông và các lãnh đạo khác nhận định rằng leo thang là chiến lược tất yếu của Mỹ, thể hiện sự bất lực trong việc khuất phục tinh thần kiên cường của miền Bắc.
Người dân miền Bắc đã chứng kiến quân đội Mỹ ném bom dọc vĩ tuyến 17, rồi mở rộng ra các vĩ tuyến 19, 20 và 21. Sau đó, bom đạn dội xuống khắp miền Bắc, từ Tây Bắc đến Đông Bắc. Đến tháng 7/1966, khu vực Hà Nội và Hải Phòng cũng bị tấn công. Trong bối cảnh đó, việc chuẩn bị cho tình huống xấu nhất – Mỹ đánh bom có hệ thống Hà Nội và Hải Phòng – là điều tất yếu.
Tuy nhiên, người miền Bắc vẫn thể hiện một sự bình tĩnh đáng kinh ngạc khi nói về tương lai của Hà Nội. Họ chấp nhận khả năng thủ đô bị xóa sổ, nhưng không hề tuyệt vọng. Kế hoạch dự phòng đã được vạch ra để xây dựng một thủ đô mới ở một địa điểm gần Hà Nội, sau khi chiến tranh kết thúc. Đối với họ, Hà Nội chỉ là một thành phố nhỏ bé, biểu trưng cho thời kỳ thực dân Pháp, và sau chiến tranh, họ sẽ xây dựng một thủ đô mới, hiện đại và mang dấu ấn của riêng mình.
Người dân Hà Nội sử dụng xe đạp, phương tiện phổ biến thời bấy giờ, năm 1967. Ảnh: Lee Lockwood
Sự tàn phá của chiến tranh đã khiến Hà Nội trở nên tiều tụy. Những công trình mới mẻ, tươi sáng nhất chỉ đếm được trên đầu ngón tay, như Phủ Chủ tịch (dinh thự Toàn quyền Đông Dương trước đây) và Nhà khách Chính phủ, đều là những công trình kiến trúc còn sót lại từ thời Pháp thuộc.
Kế hoạch sơ tán người dân ra khỏi Hà Nội, đặc biệt là trẻ em, đã không được thực hiện triệt để. Nhiều gia đình vì không muốn chia ly đã quay trở lại thành phố sau một thời gian sơ tán.
Cuộc sống thời chiến cũng khiến Hà Nội thiếu thốn đủ bề. Cửa hàng đóng cửa im lìm, hàng hóa khan hiếm. Cửa hàng đặc biệt dành cho ngoại giao đoàn cũng chỉ bày bán những mặt hàng thiết yếu với số lượng ít ỏi.
Các anh bộ đội quan sát cửa hàng bách hóa tổng hợp tại Hà Nội năm 1967. Ảnh: Lee Lockwood
Gian hàng thực phẩm có phần phong phú hơn, với mứt mận Bulgaria, dưa chuột muối, cải bắp muối của Nga, nước khoáng Borzhumi, vodka Nga, socola Trung Quốc, kẹo gôm, rượu brandy Rumania, thịt cua đóng hộp của Nga, sữa bột Trung Quốc, trà Trung Quốc, bánh quy đóng hộp sản xuất tại Trung Quốc nhưng lại dán nhãn tiếng Anh, và bất ngờ nhất là vài hộp mù tạt Colman đã cũ.
Cảnh mua bán tại một cửa hàng bách hóa ở Hà Nội năm 1967. Ảnh: Lee Lockwood
Người dân Hà Nội phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt hàng hóa trầm trọng. Các mặt hàng thiết yếu như lương thực, quần áo được phân phối trực tiếp đến người dân thông qua cơ quan, nhà máy hoặc khu dân cư, thay vì bán tại các cửa hàng.
Gạo là lương thực chính được phân phối theo khẩu phần, dao động từ 8kg đến 20kg mỗi tháng, tùy đối tượng. Khẩu phần gạo trung bình là 13kg, học sinh 15kg, công nhân lao động từ 18kg đến 20kg. Người sơ tán nhận 8kg gạo, với hy vọng họ có thể bổ sung thêm nguồn lương thực tại địa phương.
Một góc chợ tại miền Bắc Việt Nam năm 1967. Ảnh: Lee Lockwood
Đường, thịt, rau củ quả cũng được phân phối theo khẩu phần hoặc bán tại các chợ với số lượng hạn chế. Thịt là mặt hàng khan hiếm nhất. Quần áo cũng rất thiếu thốn, mỗi người chỉ được phân phối khoảng 4,5m đến 5,5m vải mỗi năm.
Mặc dù khó khăn chồng chất, chính phủ vẫn cố gắng giảm giá một số mặt hàng thiết yếu, như xe đạp, vật tư y tế, thuốc men, băng gạc và đài radio. Xe đạp là phương tiện di chuyển chủ yếu, được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc.
Xe điện cũ kỹ di chuyển qua khu vực trung tâm Hà Nội năm 1967. Ảnh: Lee Lockwood
Cuộc sống ở Hà Nội thời chiến vắng bóng những hoạt động giải trí. Nhà hát Opera Quốc gia phải đóng cửa. Các hoạt động tôn giáo cũng bị hạn chế. Đường phố vắng lặng, không có bóng taxi. Phương tiện di chuyển chủ yếu là xe ô tô dành cho cán bộ, xe buýt, xích lô và xe điện cũ kỹ.
Dù vậy, người dân Hà Nội vẫn tìm thấy niềm vui giản dị trong cuộc sống đời thường. Những quán bia, quán bar vẫn sáng đèn, tấp nập người ra vào. Các quán cà phê ven hồ là nơi thanh niên tụ tập, trò chuyện, nhâm nhi cà phê sữa, bia Hà Nội và thưởng thức những món ăn dân dã.
Và trong những ngày cuối năm 1967, không khí Tết Nguyên đán đã len lỏi trên khắp phố phường Hà Nội. Hình ảnh những người dân cần mẫn thái bí đao làm mứt Tết, những gánh hoa tươi rực rỡ tràn về từ khắp mọi miền đất nước như xua tan đi sự u ám của chiến tranh, mang đến cho Hà Nội một nhịp sống lạc quan và đầy sức sống.
Người phụ nữ bán hoa thược dược tại miền Bắc Việt Nam năm 1967. Ảnh: Lee Lockwood
Tết đến, Hà Nội sẽ ngập tràn sắc hoa và hương thơm. Người dân sẽ xuống phố du xuân, chào đón một năm mới an lành và tràn đầy hy vọng. Dù chiến tranh có khốc liệt đến đâu, Tết vẫn là dịp để người dân Việt Nam gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống, là minh chứng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của một dân tộc anh hùng.