Năm 1945, sau khi giành lại độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đứng trước muôn vàn khó khăn. Nạn đói, nạn dốt hoành hành, đất nước lại phải đối mặt với tham vọng tái chiếm của thực dân Pháp, được các nước đế quốc hậu thuẫn dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp phát xít Nhật. Miền Bắc có hơn 20 vạn quân Tưởng đóng quân từ biên giới đến vĩ tuyến 16, trong khi miền Nam, quân Anh hỗ trợ Pháp và thậm chí trang bị vũ khí cho quân Nhật để chống lại ta. Trong bối cảnh ngặt nghèo ấy, việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Pháp nổi lên như một quyết sách đầy tính lịch sử.
Bối Cảnh Quốc Tế và Mưu Đồ Tái Xâm Lược của Pháp
Anh, Mỹ, và Trung Hoa Dân Quốc đều ủng hộ việc Pháp quay trở lại Đông Dương. Chính phủ Anh kêu gọi Quốc dân đảng tạo điều kiện cho Pháp, trong khi Mỹ cũng sẵn sàng hỗ trợ. Dù tuyên bố không có tham vọng lãnh thổ với Việt Nam, Tưởng Giới Thạch lại tích cực thương lượng với Pháp để đổi lấy các tô giới và quyền lợi kinh tế. Nhận thấy rõ mưu đồ này, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương “hòa để tiến”, nhân nhượng để giữ hòa bình, tranh thủ thời gian xây dựng đất nước.
Quá Trình Đàm Phán Căng Thẳng
Từ tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu đàm phán với đại diện Pháp, J. Sainteny. Quá trình này diễn ra vô cùng căng thẳng, mỗi câu chữ đều được cân nhắc kỹ lưỡng. Bác đã phải sử dụng cả chiến thuật tâm lý để giữ vững lập trường, bảo vệ quyền lợi dân tộc.
Hình: Hà Nội những ngày giao thời.
Cuối tháng 1/1946, quân Anh rút khỏi Đông Dương, giao miền Nam cho Pháp. Tướng Salan được cử sang Trùng Khánh thương lượng với Tưởng để đưa quân Pháp vào miền Bắc. Ngày 16/2/1946, sau những nỗ lực đàm phán không ngừng nghỉ, hai bên đạt được bước tiến quan trọng, thống nhất sử dụng cụm từ “Chính phủ tự quyết”.
Hiệp Ước Hoa-Pháp và Âm Mưu của Lư Hán
Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa-Pháp được ký, cho phép Pháp thay quân Tưởng ở Bắc Đông Dương. Đổi lại, Pháp nhượng bộ về kinh tế và lãnh thổ cho Tưởng. Tuy nhiên, quân Tưởng vẫn nấn ná, gây khó dễ cho ta và tìm cách đưa tay chân vào chính quyền. Lư Hán, Tổng tư lệnh quân đội Tưởng, còn nuôi ảo tưởng dựng chính quyền thân Trung Hoa Dân Quốc tại Việt Nam.
Quyết Định Lịch Sử của Đảng và Bác Hồ
Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Việt Nam có nhiều lựa chọn, nhưng con đường nào cũng đầy chông gai. Đảng và Chính phủ đã kiên định lập trường: Độc lập, liên minh với Pháp, công nhận quyền dân tộc tự quyết và thống nhất quốc gia.
Hình: Chủ tịch Hồ Chí Minh và J. Sainteny nghe đọc nội dung Hiệp định sơ bộ trước khi ký kết.
Những ngày đầu tháng 3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh liên tục họp bàn với Chính phủ, tiếp xúc với báo chí và trao đổi với Sainteny. Tình hình càng thêm khẩn cấp khi quân Pháp đã áp sát bờ biển Bắc Kỳ.
Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/1946: Cánh Cửa Hòa Bình Mong Manh
Ngày 6/3/1946, tại Hà Nội, Hiệp định sơ bộ được ký kết. Hiệp định công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng. Việc thống nhất ba kỳ do nhân dân Việt Nam tự quyết. 15.000 quân Pháp sẽ thay thế quân Tưởng, và sẽ dần được quân đội Việt Nam thay thế trong 5 năm.
Dù chưa giành được hoàn toàn độc lập, Hiệp định 6/3 là một thắng lợi quan trọng, tạo điều kiện cho Việt Nam củng cố lực lượng, đẩy quân Tưởng về nước, tránh được nguy cơ đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù. Đây cũng là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên Việt Nam ký kết với tư cách một quốc gia có chủ quyền, mở ra con đường ngoại giao mới.
Kết luận, Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là một quyết sách sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh lịch sử đầy biến động. Hiệp định này không chỉ thể hiện nghệ thuật đàm phán tài tình, sự nhẫn nại, kiên trì mà còn là minh chứng cho lòng yêu nước, ý chí kiên cường bảo vệ độc lập dân tộc của toàn thể nhân dân Việt Nam. Bài học về tinh thần “hòa để tiến” vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh táo, sáng suốt trong xử lý các mối quan hệ quốc tế, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu.