Hồ Sĩ Đống (1739-1785) – Bậc Thầy Thi Ca Thời Lê Trung Hưng Bị Lãng Quên

Trong lịch sử văn học Việt Nam thời Lê Trung Hưng, bên cạnh những tên tuổi lẫy lừng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phạm Đình Hổ… còn có một danh sĩ tài hoa, được xem là bậc thầy thi ca đương thời nhưng lại dần chìm vào quên lãng – Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là minh chứng cho một thời đại đầy biến động, nơi văn chương và chính trị đan xen, tạo nên những gam màu sáng tối cho lịch sử dân tộc.

Xuất Thân Danh Giá, Tài Năng Xuất Chúng

Hồ Sĩ Đống (1739-1785), tự Long Cát, hiệu Dao Đình, sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Quê hương ông là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, sản sinh ra nhiều danh nhân cho đất nước, trong đó dòng họ Hồ Quỳnh Lưu nổi tiếng với bề dày lịch sử và truyền thống hiếu học.

Thực vậy, từ thế kỷ thứ 10, dòng họ Hồ đã ghi dấu ấn trong lịch sử khoa bảng với Trạng nguyên Hồ Hưng Dật. Tiếp nối truyền thống, nhiều thế hệ con cháu họ Hồ đã làm rạng danh dòng tộc. Tiêu biểu là Trạng nguyên Hồ Tông Thốc đời Trần, hay gần hơn là các vị Tiến sĩ như Hồ Bỉnh Quý (Đệ Nhị Giáp, 1577), Hồ Sĩ Dương (Đệ Tam giáp, 1652), Hồ Phi Tích (Đệ nhị giáp, 1700), Hồ Sĩ Tân (Đệ Tam Giáp, 1721).

Sinh ra trong một gia đình như vậy, Hồ Sĩ Đống sớm được tiếp xúc với văn chương và rèn luyện trong môi trường giáo dục nghiêm khắc. Ông nổi tiếng thông minh, học rộng hiểu sâu, tinh thông kinh sử, lại có tài làm thơ. Năm 1772, ông thi đỗ Hội Nguyên, Đình Nguyên, Tiến Sĩ Đệ Nhị giáp, được người đời xưng tụng là “Song nguyên Hoàng Giáp”.

Con Đường Quan Lộ và Những Trăn Cử Bất An

images396610_T4_Anh_Minh_hoa__Le_trung_hung.jpgimages396610_T4_Anh_Minh_hoa__Le_trung_hung.jpg

Minh họa về hình ảnh các quan triều đình thời Lê Trung Hưng

Với tài năng xuất chúng, Hồ Sĩ Đống được triều đình trọng dụng, trải qua nhiều chức vụ quan trọng. Ông từng giữ chức Bố Chính Kinh Bắc, Án Sát Hải Dương, chứng tỏ năng lực và phẩm chất của một vị quan thanh liêm, chính trực.

Năm 1777, ông được triều đình Lê – Trịnh cử làm Phó sứ sang nhà Thanh, cùng Chánh sứ Võ Khâm Tự và Phó sứ Nguyễn Trọng Đương. Sứ mệnh lần này ẩn chứa nhiều bất an khi chúa Trịnh Sâm (1737 -1782) ngầm muốn thông qua nhà Thanh để được phong vương, thay thế nhà Lê.

Thấu hiểu ẩn ý của chúa Trịnh nhưng bất lực trước mệnh lệnh, Võ Khâm Tự đã tự vẫn trên thuyền tại Động Đình Hồ. Trước hành động dũng cảm ấy, Hồ Sĩ Đống đã làm bài thơ “Điếu Võ Khâm Tự” để bày tỏ sự thương tiếc và cảm phục khí tiết của người đồng liêu:

Hoàng hoa lưỡng độ phú tư tuân,

Uyên đức kỳ niên cánh kỷ nhân.

Cộng tiễn bang giao nhàn ngọc bạch,

Thùy tri tiên cốt lịch phong trần.

Sinh sô lệ sái đồng chu khách,

Tái bút danh qui tuẫn quốc thần.

Trù tướng thái hồ thù nguyệt sắc.

Dạ lai do chiếu ốc lương tần.

*(Bản dịch của Nhất Uyên):

Hai độ hoàng hoa chánh sứ thần,

Tuổi cao đức trọng bậc công khanh.

Bang giao những tưởng như ngà ngọc,

Tiên cốt nào hay gió bụi trần.

Giọt lệ đồng châu dâng một lễ,

Tiếng danh tài bút bậc công thần.

Trăng thu thấp thoáng trên hồ rộng,

Lại chiếu quê nhà bóng cố nhân.

Chuyến đi sứ trở về, Hồ Sĩ Đống được thăng Tả Thị Lang Bộ Hộ, tước Dao Đình Hầu. Tuy nhiên, triều chính rối ren, loạn lạc, những cuộc tranh giành quyền lực, những mưu đồ chính trị khiến ông ngày càng chán chường.

Năm 1782, chúa Trịnh Sâm mất, kiêu binh nổi loạn, phế Trịnh Cán, đưa Trịnh Tông lên ngôi. Triều đình rối ren, Hồ Sĩ Đống được cử đi phủ dụ kiêu binh. Ông đã thể hiện là một vị quan có trách nhiệm, có uy tín, được lòng dân, được lòng lính. Nhờ vậy mà tình hình kiêu binh tạm thời được kiểm soát. Ông được thăng Bồi Tụng, Hữu thị lang Bộ Hộ, sau đó được cử làm Đô Chỉ Huy Sứ kiêm Bồi Tụng Chánh Sự phủ đường.

Năm 1783, cha ông là cụ Hồ Sĩ Danh qua đời, ông xin về chịu tang nhưng chúa Trịnh không cho. Mất mát lớn chưa nguôi ngoai, ông lại nhận được tin kiêu binh lại nổi loạn, Nguyễn Khản thất thế phải bỏ trốn. Ông lại được triệu về kinh đô dẹp loạn, ổn định tình hình.

Trăn Trở Trước Vận Nước, Nỗi Niềm Của Người Kẻ Sĩ

Giữa thời cuộc nhiễu nhương, Hồ Sĩ Đống vẫn thể hiện là một vị quan hết lòng vì dân vì nước. Năm 1784, ông được cử vào Quảng Nam, vùng đất lúc bấy giờ đã nằm ngoài sự kiểm soát của nhà Lê – Trịnh, giao cho tướng Phạm Ngô Cầu trấn giữ. Nhiệm vụ lần này của ông vô cùng khó khăn, bởi Tây Sơn đang ngày càng lớn mạnh, trong khi triều đình Lê – Trịnh suy yếu và đầy rẫy những bất ổn.

Trong hoàn cảnh ấy, Hồ Sĩ Đống vẫn nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ, gán mình cho vận mệnh đất nước. Bài thơ “Nhớ Đế Kinh” được ông sáng tác trong thời gian này đã thể hiện rõ nét tâm trạng của một vị quan trước vận nước nghiêng ngả:

Thiên lý quan hà mộng Đế kinh,

Quy châu cơ bạc Phú Xuân thành.

Nhân do kiêu dưỡng thành lăng vũ,

Thiên vị ân ưu khởi thánh minh.

Sơn bắc thủy quang song trú nhãn.

Triều cơ biên sự lưỡng quan tinh.

Trung tiêu cảnh cảnh tân y chẩm,

Mao điếm thờ văn kê sổ thành.

*(Bản dịch của Nhất Uyên)

Vạn dậm nhớ về cảnh Đế Kinh,

Thuyền về tạm nghỉ Phú Xuân thành.

Người do kiêu ngạo thành lăng vũ,

Trời khiến thương dân bậc thánh nhân.

Núi bắc nước trong thêm sáng mắt,

Trong triều ngoài cõi chẳng nguôi lòng.

Canh khuya tựa gối mơ màng mộng.

Điếm cỏ tiếng gà ai gáy vang.

Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ kinh thành, nhớ quê hương, mà sâu thẳm hơn là nỗi lo lắng cho vận mệnh đất nước, cho số phận dân trời. Hình ảnh “núi bắc nước trong”, “canh khuya tựa gối”, “tiếng gà gáy vang” đã gợi lên một bầu không khí ảm đạm, buồn bã, và cũng chính là nỗi niềm trăn trở của một người kẻ sĩ yêu nước thương dân như ông.

Không lâu sau đó, ông được triệu về kinh để tiếp tục giúp vua dẹp loạn kiêu binh. Tuy nhiên, do lao lực quá độ, cộng thêm năm tháng chinh chiến gian lao, Hồ Sĩ Đống qua đời vào ngày 10 tháng 10 năm Ất Tỵ (1785), hưởng dương 47 tuổi.

Sự ra đi của ông là một mất mát lớn cho triều đình Lê – Trịnh lúc bấy giờ. Không chỉ là một vị quan tài ba, liêm chính, ông còn là một nhà thơ có tâm, có tài.

Gương Mặt Tiêu Biểu Của Trào Lưu Thơ Ca Vịnh Sử

Hồ Sĩ Đống là một gương mặt tiêu biểu của trào lưu thơ ca vịnh sử thời Lê Trung Hưng. Thơ ông mang đậm dấu ấn thời đại, vừa phản ánh hiện thực xã hội, vừa thể hiện tâm tư, khát vọng của người trí thức trước vận mệnh đất nước.

Thơ Hồ Sĩ Đống được đánh giá cao về khí phách hào hùng, lời lẽ trang nhã, ý tứ sâu sắc. Ông thường mượn cảnh để nguy, mượn cổ để kim, gửi gắm nỗi niềm ưu tư trước những biến cố của thời cuộc. Tác phẩm của ông không chỉ để lại cho đời những vần thơ hay mà còn là những trang sử đáng giữ gìn của dân tộc.

Tiếc rằng, phần lớn tác phẩm của ông đã bị thất lạc trong những năm tháng chiến tranh. Hiện nay, chúng ta chỉ còn biết đến ông qua một số bài thơ được ghi chép lại trong các bộ sử như “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Vũ Trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ…

Di Sản Văn Chương và Bài Học Về Lòng Trung Thủy

Hồ Sĩ Đống tuy mất sớm nhưng đã để lại cho đời một di sản văn chương đáng quý và một tấm gương sáng ngời về lòng trung thủy, yêu nước thương dân. Ông xứng đáng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thời kỳ Lê Trung Hưng.

Dù cuộc đời và sự nghiệp của ông không được ghi chép đầy đủ trong sử sách, nhưng qua những trang viết của Phạm Đình Hổ, Bùi Dương Lịch…, chúng ta vẫn nhìn thấy một Hồ Sĩ Đống tài hoa, thanh liêm, trọng nghĩa khí, một người con xuất sắc của quê hương Quỳnh Lưu, Nghệ An và là niềm tự hào của dòng họ Hồ danh giá.

Cuộc đời ông là tấm gương phản chiếu một thời đại đầy biến động, với những chìm nổi của lịch sử, những tranh giành quyền lực, những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Giữa vòng xoáy ấy, Hồ Sĩ Đống vẫn giữ vững phẩm chất cao quý của người trí thức yêu nước, luôn gắn bó vận mệnh của mình với vận mệnh đất nước. Tấm gương sáng ngời ấy cần được các thế hệ mai sau học tập và noi theo.

Tài Liệu Tham Khảo

  • Hồ Sĩ Húy. Song nguyên Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống (1739-1785).
  • Phạm Đình Hổ. Vũ Trung Tùy Bút. Đông Nam Á. Paris.
  • Trần Trọng Kim. Viêt Nam Sử Lược. quyển I, II. Sống Mới. 1978.
  • Nguyễn Thu . Lê Quý Kỷ Sự. NXB Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1974.
  • Ngô Cao Lãng. Lịch Triều Tạp Kỷ. tập II. NXB Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1975.
  • Ngô Văn Gia phái. Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Văn Học. Hà Nội 1970.
  • Bùi Dương Lịch. Lê Quý dật sử. NXB Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1987.
  • Tài liệu về dòng dõi họ Hồ. hogiatrang. com/ hogiatochtn.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?