Từ ngàn xưa, ông cha ta đã xem trọng lễ nghĩa như nền tảng đạo đức xã hội. Câu tục ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” không chỉ được đúc kết từ kho tàng tri thức Nho giáo mà còn trở thành kim chỉ nam cho biết bao thế hệ và vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Trong bài viết đăng trên báo Thanh Nghị số 44, ra ngày 01/09/1943, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy đã có những phân tích sâu sắc về chữ lễ trong văn hóa Việt Nam xưa và nay.
Nội dung
Đi học để làm gì?
Chúng ta thường nghe câu trả lời “Đi học để biết đọc, biết viết, biết tính”. Nhưng liệu ba điều đó có đủ để tạo nên một con người toàn diện? Cũng như trang bị cưa, đục, bào không thể biến ai thành thợ mộc giỏi, “đọc, viết, tính” cũng chỉ là công cụ. Con người hơn loài vật ở chỗ “biết lễ” (Lễ ký). Do đó, việc giáo dục cần đặt lễ lên hàng đầu, văn là thứ yếu.
Con người tuy không khỏe bằng voi, không nhanh bằng hươu, không sống lâu bằng rùa nhưng lại có tư duy và biết cách sống đúng mực, biết lễ nghĩa. Lịch sử đã chứng minh sức mạnh của lễ nghĩa có thể ngăn cản vạn quân hùng binh. Vua tôi nước nào cũng coi trọng bậc hiền tài biết lễ nghĩa.
“Lớp học thư pháp”, tranh của họa sĩ Thang Trần Phềnh (1895-1972)
Vậy “lễ” là gì? Lễ không phải là hình thức bên ngoài mà là sự tu dưỡng đạo đức, là cách ứng xử phù hợp với bản thân và xã hội. Lễ thể hiện qua cách ăn mặc, lời nói, cử cư, đối nhân xử thế. Người biết lễ tự trọng, biết kính trên nhường dưới, sống ngay thẳng, không làm điều trái với lương tâm.
Lễ nghĩa là khuôn phép giúp con người sống hòa thuận, đất nước thái bình. Xã hội rối ren, chiến tranh loạn lạc cũng bởi con người đánh mất lòng nhân, không coi trọng lễ nghĩa.
Chu Công, Khổng Tử và sách “Lễ”
Chu Công làm sách Chu lễ đặt nền móng cho việc trị nước, coi dân là gốc, lấy dân làm trọng. Nhờ đó mà nhà Chu trị vì hơn 800 năm. Đến đời Khổng Tử, phép nước suy vi, lòng người ly tán, Ngài viết Lễ ký nhằm giáo dục đạo làm người, lấy chữ kính làm gốc.
Sách Lễ ký đề cập đến đạo vua tôi, cha con, anh em, thầy trò, quy tắc ứng xử trong gia đình và xã hội, ý nghĩa của bốn lễ quan trọng trong đời người (quan, hôn, tang, tế). Về sau, Văn Công viết Gia lễ để cụ thể hóa các nghi thức trong bốn lễ đó.
Lễ nghĩa là con đường làm người, bỏ lễ nghĩa là tự phá hủy nền móng đạo đức, khiến xã hội suy vong.
Bốn lễ trong đời người
Ngày nay, nhiều người chỉ chú trọng hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa sâu đẹp của các nghi lễ truyền thống.
Lễ Quan
Lễ đội mũ (quan) tượng trưng cho sự trưởng thành, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời người con trai. Ngày xưa, khi đến tuổi trưởng thành, người con trai sẽ được làm lễ đội mũ, từ đó gánh vác trách nhiệm với gia đình, xã hội.
Lễ Hôn
Lễ cưới (hôn) không chỉ là tiệc tùng linh đình mà là sự kiện thiêng liêng, đánh dấu sự kết hợp giữa hai dòng họ. Các nghi thức trong lễ cưới đều mang ý nghĩa tốt đẹp như mong ước vợ chồng hạnh phúc, thủy chung, gia đình hòa thuận, dòng họ phát triển.
Một đám cưới ở Hà Nội thập niên 1940 – 1950. Ảnh tư liệu
Ngày nay, nhiều người chỉ chú trọng hình thức, xem nhẹ ý nghĩa của lễ cưới.
Lễ Tang
Lễ tang không chỉ là nghi thức tiễn đưa người đã khuất mà còn thể hiện lòng hiếu thảo, sự biết ơn của con cháu đối với tổ tiên. Quan niệm của người xưa là coi trọng chữ hiếu, người sống phải lo cho người đã khuất chu toàn, người khuất được an nghỉ thì người sống mới yên lòng.
Lễ động quan trong đám tang vua Khải Định năm 1925. Gia quyến mặc tang phục màu trắng, có đoàn thổi kèn giải và đánh đàn. Ảnh: Wikipedia
Ngày nay, nhiều người không hiểu ý nghĩa của lễ tang, chỉ xem trọng hình thức bên ngoài.
Lễ Tế
Lễ tế là nghi thức thể hiện lòng thành kính, biết ơn của con cháu đối với tổ tiên. Ngày giỗ là dịp để con cháu tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục, noi gương sáng của ông bà, cha mẹ.
Ban thờ gia tiên của một gia đình ở Hà Đông (Hà Nội) những năm đầu thế kỉ XX. Ảnh: Thư viện Quốc gia Pháp
Tuy nhiên, ngày nay nhiều gia đình xem nhẹ việc thờ cúng tổ tiên, biến ngày giỗ thành dịp ăn uống linh đình.
Kết luận
Lễ nghĩa là nền tảng đạo đức, là bản sắc văn hóa của người Việt. Trong thời đại ngày nay, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại để xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp.