Hoàng Hạc Lâu Qua Lăng Kính Thi Ca Của Các Sứ Thần Nước Nam

Hoàng Hạc Lâu, một danh thắng bậc nhất đất Vũ Hán, Trung Quốc, không chỉ là niềm cảm hứng bất tận cho thi ca Trung Hoa mà còn là đề tài thú vị qua lăng kính của nhiều thi nhân Việt Nam, đặc biệt là các sứ thần từng đặt chân đến đây trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Bài viết này sẽ cùng bạn đọc khám phá vẻ đẹp Hoàng Hạc Lâu qua những vần thơ đầy xúc cảm của các sứ thần nước Nam, từ đó thấy được sự giao thoa văn hóa cũng như tài năng xuất chúng của họ.

Hoàng Hạc Lâu – Từ Huyền Thoại Đến Danh Thắng

109 1pr2114116417 d5256f99

Hoàng Hạc Lâu được xây dựng từ thời Tam Quốc (năm 223), ban đầu chỉ là một đài quan sát quân sự. Theo thời gian, công trình kiến trúc này dần trở thành một địa danh nổi tiếng gắn liền với huyền thoại về Phí Văn Vi – vị tiên nhân cưỡi hạc vàng. Truyền thuyết này đã thổi hồn vào lầu Hoàng Hạc, biến nó trở thành biểu tượng cho sự thanh cao, thoát tục và khát vọng trường sinh bất tử.

Dưới thời Đường, câu chuyện về Phí Vân Vi càng khiến Hoàng Hạc Lâu trở nên nổi tiếng, thu hút đông đảo văn nhân thi sĩ ghé thăm và để lại những áng thơ văn bất hủ. Trong đó, nổi bật nhất phải kể đến bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu. Bài thơ với ngôn từ giản dị mà hàm súc, vẽ nên bức tranh phong cảnh vừa hùng vĩ vừa u tịch, thấm đượm nỗi buồn ly biệt và hoài cổ.

Chính bài thơ của Thôi Hiệu đã tạo nên “tồn tại văn chương” mạnh mẽ cho Hoàng Hạc Lâu, khiến hậu thế mỗi khi đặt chân đến đây đều không khỏi bồi hồi, xúc động. Thậm chí, ngay cả thi tiên Lý Bạch cũng phải thốt lên rằng: “Trước mắt có cảnh không tả được. Vì thơ Thôi Hiệu ở trong đầu”.

Hoàng Hạc Lâu Qua Lăng Kính Của Các Sứ Thần Việt Nam

Với vị thế là một danh lam thắng cảnh bậc nhất Trung Hoa, Hoàng Hạc Lâu đã trở thành điểm đến không thể bỏ qua đối với các sứ thần Việt Nam khi đến đất Bắc. Không chỉ chiêm ngưỡng cảnh đẹp, các sứ thần còn ghi lại cảm xúc của mình bằng những vần thơ đầy thi vị. Mỗi bài thơ đều mang một phong cách riêng, thể hiện cá tính, tâm hồn và vốn kiến thức uyên bác của tác giả.

Nguyễn Du – Nông Sâu Của Nỗi Niềm Hoài Cổ

Năm 1813, trong một lần đi sứ, Nguyễn Du đã có dịp ghé thăm Hoàng Hạc Lâu. Cảm xúc trước cảnh đẹp nơi đây, ông đã viết nên bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” với những vần thơ đầy trầm mặc, hoài niệm:

Thần tiên đã đến tự bao giờ ?
Còn lại dấu tiên trên bến mơ.
Giấc mộng Lư Sinh kim cổ vọng,
Vần thơ Thôi Hiệu hạc lầu trơ.

M opening đầu bài thơ là lời chiêm nghiệm về dấu ấn thời gian, về sự hiện hữu mong manh của con người trước dòng chảy lịch sử. Hình ảnh “thần tiên” và “bến mơ” gợi lên một không gian hư ảo, mờ mịt, đối lập với sự tồn tại hữu hạn của kiếp người.

Nguyễn Du tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với “giấc mộng Lư Sinh”, một điển tích nổi tiếng về sự phù du của danh lợi. “Kim cổ vọng” (cổ kim luống trống) là tiếng thở dài ngậm ngùi trước sự vô thường của cuộc đời.

Giữa không gian trầm mặc ấy, vần thơ Thôi Hiệu và lầu Hoàng Hạc như hai chứng nhân lịch sử, vẫn sừng sững hiên ngang thách thức cùng thời gian. Hình ảnh “hạc khứ lâu không” (hạc đã bay đi, lầu còn trống không) gợi lên nỗi niềm hoài cổ, tiếc nuối quá khứ của nhà thơ.

Phạm Sư Mạnh – Khí Phách Của Người Cầm Tiết Ngọc

Trái ngược với Nguyễn Du, Phạm Sư Mạnh lại thể hiện khí phách và hoài bão của mình khi đứng trước Hoàng Hạc Lâu. Bài thơ “Đăng Hoàng Hạc Lâu” của ông toát lên vẻ đẹp hùng tráng, khẳng định ý chí và khát vọng của người cầm bút.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, khoáng đạt:

Bành Thành xanh núi chập chùng quanh,
Như bình phong ngọc lẫn mây xanh.
Cuồn cuộn Hoàng Hà ngấm lòng đất,
Đông nam sủi bọt sóng dồn nhanh.

Từ trên lầu cao, Phạm Sư Mạnh phóng tầm mắt ra xa, bao quát cả một vùng trời đất rộng lớn. Hình ảnh “núi xanh”, “mây xanh”, “Hoàng Hà”,… được khắc họa với những động từ mạnh mẽ như “chập chùng”, “cuồn cuộn”, “sủi bọt”,… tạo nên một khung cảnh vừa hùng vĩ vừa tràn đầy sức sống.

Những Góc Nhìn Khác Về Hoàng Hạc Lâu

Bên cạnh Nguyễn Du và Phạm Sư Mạnh, còn có rất nhiều sứ thần khác đã để lại những vần thơ ấn tượng về Hoàng Hạc Lâu. Mỗi người một phong cách, một tâm hồn, nhưng đều thể hiện sự am hiểu văn hóa và tài năng xuất chúng.

Nguyễn Trung Ngạn với bài thơ “Du Hoàng Hạc Lâu” mang đến cảm giác sảng khoái, phóng khoáng của người lữ hành:

Lữ khách xa nhà sầu chẳng vơi,
Ghềnh Nam lầu Hạc đứng ngây người.
Cánh buồm Hạ Khẩu xa mờ bóng,
Cây tạnh Hán Dương, sông bãi phơi.

Lê Anh Tuấn lại chiêm nghiệm về lẽ đời, về chí khí nam nhi khi đứng trước danh lam thắng cảnh:

Dực, Chẩn danh lam đất Hán Dương,
Bốn bề cảnh sắc vào văn chương.
Mênh mang khói sóng buồn lòng khách,
Trăng gió gọi mời say chén suông.

Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thời Vị, Phan Thanh Giản,… mỗi người một vẻ, góp thêm những gam màu phong phú cho bức tranh Hoàng Hạc Lâu qua lăng kính thi ca của các sứ thần Việt Nam.

Kết Luận

Những bài thơ về Hoàng Hạc Lâu của các sứ thần nước Nam không chỉ là minh chứng cho tài năng văn chương mà còn thể hiện sự giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Đồng thời, qua những vần thơ ấy, ta còn thấy được tâm hồn, chí khí và tầm vóc của những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử dân tộc.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?