Bài viết này sẽ đưa bạn đọc vào hành trình khám phá cách thức đặt tên độc đáo của dòng họ Nguyễn Phước (Phúc) – dòng họ gắn liền với lịch sử triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Từ những ghi chép trong kim sách đế hệ thi, những quy tắc bất thành văn cho đến các danh xưng đặc biệt, chúng ta sẽ cùng nhau giải mã những bí ẩn đằng sau cách đặt tên của dòng họ hoàng tộc này.
Nội dung
- Nguồn Gốc Của Dòng Họ Nguyễn Phước (Phúc) 阮福
- Hệ Thống Hóa Dòng Họ Dưới Thời Minh Mạng
- Đế Hệ Thi và Phiên Hệ Thi: Chìa Khóa Giải Mã Cách Đặt Tên
- Quy Tắc Đặt Tên Cho Con Cháu Dòng Đế Hệ
- Quy Tắc Đặt Tên Cho Con Cháu Dòng Phiên Hệ
- Giải Mã Những Danh Xưng Đặc Biệt: Tôn Thất, Tôn Nữ, Công Tôn Nữ…
- Tôn Thất (尊室)
- Tôn Nữ (尊女)
- Tôn Nữ (孫女)
- Phương Pháp Đặt Tên Cho Dòng Tiền Hệ Sau Năm 1945
- Kết Luận
Nguồn Gốc Của Dòng Họ Nguyễn Phước (Phúc) 阮福
Theo ghi chép trong kim sách đế hệ thi, xuất bản năm 1823 dưới thời vua Minh Mạng, dòng họ Nguyễn Phước có nguồn gốc từ làng Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa. Trải qua nhiều thế hệ, dòng họ Nguyễn dần trở thành một dòng họ lớn, nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình.
Đình Gia Miêu, nơi thờ tự tổ tiên của dòng họ Nguyễn Phước
Sự kiện chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệp đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của dòng họ Nguyễn Phước. Đến đời vua Gia Long, sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn chính thức được thành lập. Để phân biệt rõ ràng các chi họ, vua Gia Long đã ban bố quy định về cách thức ghi chép tộc phả: con cháu chúa Nguyễn Hoàng ở phương Nam mang họ tôn thất Nguyễn Phúc, trong khi con cháu ở đất Bắc và các chi họ trước đó ở Thanh Hóa sẽ mang họ Nguyễn Hựu.
Hệ Thống Hóa Dòng Họ Dưới Thời Minh Mạng
Vua Minh Mạng được biết đến là một vị vua có tâm huyết trong việc củng cố và phát triển vương triều. Năm 1823, ông đã cho soạn thảo và ban hành bộ sách Nguyễn Phước tộc thế phả, góp phần hệ thống hóa dòng tộc một cách rõ ràng và chi tiết. Theo đó, con cháu các chúa Nguyễn được xếp vào tiền hệ, trong khi con cháu vua Gia Long thuộc về chánh hệ. Bên trong chánh hệ lại được chia thành hai nhánh nhỏ hơn là đế hệ (dòng dõi trực hệ của vua) và phiên hệ (dòng dõi của các anh em vua). Sự phân chia này là cơ sở cho những quy tắc đặt tên riêng biệt và độc đáo của dòng họ Nguyễn Phước sau này.
Đế Hệ Thi và Phiên Hệ Thi: Chìa Khóa Giải Mã Cách Đặt Tên
Năm 1823, với mong muốn con cháu đời sau sẽ kế thừa đại nghiệp, vua Minh Mạng đã đích thân soạn thảo đế hệ thi và phiên hệ thi, mỗi bài gồm 20 chữ Hán, làm kim chỉ nam cho việc đặt tên cho thế hệ sau.
Đế hệ thi được khắc vào bộ sách vàng chế ngự, dùng để đặt tên cho con cháu thuộc dòng đế hệ. Phiên hệ thi được khắc in trong bộ sách bạc, dùng để đặt tên cho con cháu thuộc dòng phiên hệ. Quy tắc đặt tên này đã được duy trì cho đến tận ngày nay và trở thành một nét đặc trưng trong văn hóa của dòng họ Nguyễn Phước.
Quy Tắc Đặt Tên Cho Con Cháu Dòng Đế Hệ
Bài thơ Đế hệ thi được vua Minh Mạng ban bố như sau:
綿 (miên Bộ) 洪 (nhân bộ) 膺 (thị bộ) 寶 (sơn bộ) 永 (ngọc bộ)
保 (phụ bộ) 貴 (nhân bộ) 定 (ngôn bộ) 隆 (tài bộ) 長 (hòa bộ)
賢 (bối bộ) 能 (lực bộ) 堪 (tài bộ) 繼 (ngôn bộ) 述 (tâm bộ)
世 (ngọc bộ) 瑞 (thạch bộ) 國 (đại bộ) 嘉 (hòa bộ) 昌 (tiểu bộ)
Theo quy tắc này, mỗi đời con cháu kế tiếp của vua Minh Mạng sẽ lấy lần lượt chữ cái đầu tiên trong bài thơ làm tên lót, bắt đầu từ chữ Miên (綿), sau đó đến chữ Hồng (洪), Ưng (膺), cho đến chữ cuối cùng là Xương (昌) rồi lại quay trở lại chữ Miên.
Ví dụ, vua Thiệu Trị có húy là Nguyễn Phước Miên Tông (綿宗), em trai của vua là Nguyễn Phước Miên Định (綿定), Nguyễn Phước Miên Nghi (綿宜). Tiếp đến, vua Tự Đức có húy là Nguyễn Phước Hồng Nhậm (洪任), vua Dục Đức là Nguyễn Phước Ưng Chân (膺禛)…
Không chỉ quy định về chữ lót, vua Minh Mạng còn đặt ra quy tắc về bộ thủ tương ứng với mỗi chữ cái trong bài thơ. Theo đó, tên của con cháu phải được đặt theo đúng bộ thủ đã quy định. Ví dụ, đời vua Thiệu Trị với chữ lót là Miên (綿) phải lấy những chữ thuộc bộ Miên (宀) để đặt tên, đời vua Tự Đức với chữ lót là Hồng (洪) phải lấy những chữ thuộc bộ Nhân (亻) để đặt tên…
Tuy nhiên, quy tắc này đã có sự thay đổi nhất định vào thời vua Tự Đức. Theo đó, chỉ có vua – người kế vị ngai vàng – mới phải tuân thủ quy tắc đặt tên theo đúng bộ thủ, con cháu của các vị hoàng thân khác được phép lựa chọn chữ thuộc bộ khác để đặt tên. Trường hợp của vua Dục Đức và vua Bảo Đại là minh chứng rõ nét cho sự thay đổi này.
Bên cạnh đó, vua Minh Mạng còn sáng tạo ra 20 chữ bộ Nhật để các vị vua trong tương lai có thể dùng làm tên húy khi lên ngôi. 20 chữ này bao gồm:
Tuyền – Thì – Thăng – Hạo – Minh
Biện – Chiêu – Hoảng – Tuấn – Thiển
Trí – Huyên – Giản – Huyên – Lịch
Chất – Tích – Yến – Hy – Duyên
Hầu hết các vị vua triều Nguyễn đều tuân thủ quy tắc này, ví dụ như vua Tự Đức lấy tên húy là Thì, vua Hiệp Hòa lấy tên húy là Thăng, vua Kiến Phúc lấy tên húy là Hạo…
Quy Tắc Đặt Tên Cho Con Cháu Dòng Phiên Hệ
So với đế hệ, quy tắc đặt tên cho con cháu dòng phiên hệ có phần đơn giản hơn. Theo đó, mỗi đời con cháu thuộc dòng phiên hệ sẽ lấy một chữ cái trong bài thơ Phiên hệ thi thuộc dòng dõi của mình để làm tên lót.
Ví dụ, dòng Anh Duệ có chữ cái đầu tiên là Mỹ (美) thì sẽ có các tên như Mỹ Đường (美堂), Mỹ Thùy (美垂)… Bên cạnh đó, tên của con cháu cũng phải tuân thủ quy tắc về bộ thủ theo ngũ hành tương sinh, bắt đầu từ bộ Thổ, sau đó đến Kim, Thủy, Mộc và cuối cùng là Hỏa.
Ví dụ, đời đầu tiên của dòng Anh Duệ là chữ thuộc bộ Thổ, nên tên con cháu phải là những chữ thuộc bộ này, chẳng hạn như Mỹ Đường (美堂), đời tiếp theo là chữ thuộc bộ Kim, sẽ có những cái tên như Lệ Chung (麗鐘)….
Dưới đây là nội dung bài thơ Phiên hệ thi:
Anh Duệ hệ
Mỹ Lệ Tăng Cường Tráng 美 麗 增 彊 壯
Liên Huy Phát Bội Hương 聯 輝 發 佩 香
Linh Nghi Sùng Tốn Thuận 令 儀 咸 巽 順
Vĩ Vọng Biểu Khiêm Quang 偉 望 表 坤 光
Kiến An hệ
Lương Kiến Ninh Hòa Thuật 良建寧和術
Du Hành Suất Nghĩa Phương 攸行率義方
Dung Di Tương Thức Hảo 融怡相式好
Cao Túc Thái Vi Chương 高宿彩為章
Định Viễn hệ
Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái 靖懷瞻遠愛
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha 景仰茂聲珂
Nghiễm Cách Do Trung Đạt 儼恪由衷達
Liên Trung Tập Cát Đa 連忠集吉多
Diên Khánh hệ
Diên Hội Phong Hanh Hợp 延會豐亨合
Trọng Phùng Tuấn Lãng Nghi 重逢儁朗宜
Hậu Lưu Thành Tú Diệu 厚留成秀妙
Diễn Khánh Thích Phương Huy 衍慶適芳徽
Điện Bàn hệ
Tín Điện Tư Duy Chính 信奠思維正
Thành Tồn Lợi Thỏa Trinh 誠存利妥貞
Túc Cung Thừa Hữu Nghị 肅恭承友議
Vinh Hiển Tập Khanh Danh 榮顯襲卿Danh
Thiệu Hóa hệ
Thiện Thiệu Kỳ Tuần Lý 善紹期循理
Văn Tri Tại Mẫn Du 聞知在敏猷
Ngưng Lân Tài Chí Lạc 凝麟才至樂
Địch Đạo Doãn Phu Hưu 迪道允孚休
Quảng Uy hệ
Phượng Phù Trưng Khải Quảng 鳳符徵啟廣
Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ 金玉卓標奇
Điển Học Kỳ Gia Chí 典學期加志
Giáo Di Khắc Tự Trì 教彝克自持
Thường Tín hệ
Thường Hựu Tuân Gia Huấn 常佑遵家訓
Lâm Trang Túy Thạnh Cung 臨莊粹盛恭
Thận Tu Di Tiến Đức 慎修彌進德
Thụ Ích Mậu Tân Công 受益懋新 Công
An Khánh hệ
Khâm Tòng Xưng Ý Phạm 欽從稱懿範
Nhã Thịnh Thủy Hoằng Quy 雅正始弘規
Khải Đễ Đằng Cần Dự 愷悌滕勤譽
Quyến Ninh Cộng Tập Hi 眷寧共緝熙
Từ Sơn hệ
Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm 慈采揚瓊錦
Phu Văn Ái Diệu Dương 敷文藹耀陽
Bách Chi Quân Phụ Dực 百支勻輔翼
Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương 萬葉効匡襄
Giải Mã Những Danh Xưng Đặc Biệt: Tôn Thất, Tôn Nữ, Công Tôn Nữ…
Bên cạnh họ chính là Nguyễn Phước, dòng họ này còn sử dụng một số danh xưng đặc biệt như Tôn Thất, Tôn Nữ, Công Tôn Nữ… Vậy ý nghĩa thực sự của những danh xưng này là gì?
Tôn Thất (尊室)
Tôn Thất (尊室), vốn được viết là Tông Thất (宗室), là danh xưng dùng để chỉ chung những người thuộc dòng dõi nhà vua, bao gồm cả Tôn Thất nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê… chứ không riêng gì nhà Nguyễn.
Sở dĩ có sự thay đổi trong cách viết từ Tông Thất (宗室) thành Tôn Thất (尊室) là do kiêng húy vua Thiệu Trị – Nguyễn Phước Miên Tông (綿宗).
Năm 1829, vua Minh Mạng ban chiếu quy định con cháu dòng phiên hệ và tiền hệ không được dùng quốc tính Nguyễn Phước mà phải đổi thành Tôn Thất.
Như vậy, Tôn Thất thực chất là một danh xưng, chứ không phải họ riêng của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, do duy trì cách gọi này trong một thời gian dài, nhiều người lầm tưởng Tôn Thất là một họ riêng biệt.
Tôn Nữ (尊女)
Tương tự như Tôn Thất, Tôn Nữ (尊女) cũng được viết là Tông Nữ (宗女) và sau này đổi thành Tôn Nữ (尊女) để kiêng húy vua Thiệu Trị.
Đây là danh xưng dùng để chỉ những người con gái mang họ vua, được sử dụng từ thời Lý, Trần, Lê và tiếp tục được sử dụng dưới thời Nguyễn.
Năm 1829, vua Minh Mạng ban chiếu quy định con gái thuộc dòng phiên hệ và tiền hệ đều phải đổi từ quốc tính Nguyễn Phước thành Tôn Nữ.
Tôn Nữ (孫女)
Khác với Tôn Nữ (尊女), Tôn Nữ (孫女) dùng để chỉ cháu gái hoặc chắt gái của vua.
Năm 1829, vua Minh Mạng ban chiếu quy định: Con trai của vua sẽ được gọi là Hoàng tôn, cháu trai là Hoàng tằng tôn, chắt trai là Hoàng huyền tôn. Về con gái cũng theo quy tắc tương tự.
Theo đó, cháu gái (bên nội) của vua sẽ được gọi là Công Tôn Nữ (公孫女), chắt gái (bên nội) là Công Tằng Tôn Nữ (公曾孫女) và chít gái (bên nội) là Công Huyền Tôn Nữ (公玄孫女).
Phương Pháp Đặt Tên Cho Dòng Tiền Hệ Sau Năm 1945
Khác với dòng chánh hệ, dòng tiền hệ không có bất kỳ một quy định cụ thể nào trong việc đặt tên. Trước năm 1945, con cháu dòng tiền hệ thường chỉ lấy tên có một chữ để phân biệt với dòng phiên hệ. Tuy nhiên, sau năm 1945, khi danh xưng Tôn Thất không còn được sử dụng phổ biến, nhiều người đã quay trở lại sử dụng họ Nguyễn Phước và bắt đầu đặt tên lót cho con cháu.
Dù vậy, tên lót của con cháu dòng tiền hệ thường là những chữ cái không có trong đế hệ thi và phiên hệ thi. Đây được xem như một quy tắc “bất thành văn” trong cách thức đặt tên của dòng họ Nguyễn Phước cho đến ngày nay.
Kết Luận
Cách đặt tên của dòng họ Nguyễn Phước là một minh chứng cho sự sáng tạo và tinh tế trong văn hóa đặt tên của người Việt xưa. Thông qua những quy tắc chặt chẽ được quy định trong đế hệ thi, phiên hệ thi và những danh xưng đặc biệt, có thể thấy được mong muốn duy trì nề nếp gia phong, dòng tộc cũng như sự tôn kính đối với tổ tiên của dòng họ Nguyễn Phước.