Xứ Quảng, vùng đất gắn liền với câu ca dao “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co”, từ lâu đã nổi tiếng với bản sắc văn hóa độc đáo và truyền thống lịch sử hào hùng. Nằm nép mình bên bờ biển miền Trung, Quảng Ngãi xưa là nơi hội tụ của nhiều dân tộc, tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng và đầy màu sắc. Bài viết này, dựa trên nội dung cuốn “Non nước xứ Quảng” của nhà biên khảo Phạm Trung Việt (xuất bản năm 1965), sẽ đưa bạn đọc khám phá những nét đặc trưng về địa lý nhân văn của vùng đất này, từ dân số, phong tục tập quán đến những di tích lịch sử ghi dấu ấn thời gian.
Nội dung
Quảng Ngãi – Vùng Đất Của Sự Kiên Cường Và Thích Nghi
Dân số Quảng Ngãi từ năm 1921 đến 1962 cho thấy sự tăng trưởng đều đặn, bất chấp biến động lịch sử và làn sóng di cư vào Nam từ năm 1958.
Năm | Dân số |
---|---|
1921 | 423.000 |
1933 | 438.000 |
1938 | 447.994 |
1955 | 645.559 |
1958 | 676.203 |
1962 | 721.487 |
Tính đến năm 1962, dân số Quảng Ngãi là 721.487 người, trong đó nam giới là 374.674 người và nữ giới là 346.813 người. Riêng tỉnh lỵ Quảng Ngãi (xã Cẩm Thành) có 7.800 người.
Bên cạnh cộng đồng người Việt chiếm đa số, Quảng Ngãi còn là nơi sinh sống của các cộng đồng người Hoa, Ấn, Mỹ. Người Hoa chủ yếu kinh doanh, tập trung ở tỉnh lỵ và các thị trấn. Người Ấn buôn bán vải ở thị xã. Người Mỹ chủ yếu là quân nhân, giáo sĩ và bác sĩ.
Nét Sinh Hoạt Đặc Trưng Của Người Dân Xứ Quảng
Người Việt – Bền Bỉ Trên Mảnh Đất Khó
Người Việt ở Quảng Ngãi đa số làm nông, một số ít làm nghề thủ công. Đất đai cằn cỗi khiến họ phải sống tằn tiện, cần cù.
Diêm dân thu hoạch muối ở Sa Huỳnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khoảng năm 1920-1929. Nguồn ảnh: flickr manhhai
Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, người dân Quảng Ngãi vẫn giữ được nét phóng khoáng, trọng thể diện. Họ chuộng nhà cửa cao ráo, vườn tược sạch sẽ. Trong ẩm thực, do sản lượng lúa gạo không đủ, người dân thường phải ăn độn khoai, đậu.
Đời sống tinh thần của người dân Quảng Ngãi gắn liền với các phong tục tập quán truyền thống. Họ coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, duy trì các nghi lễ như tảo mộ, cúng giỗ…
Người Thượng – Giữ Vững Nếp Sống Giữa Rừng Thiêng Nước Độc
Cộng đồng người Thượng ở Quảng Ngãi chủ yếu thuộc nhóm Chàm, cư trú tại các vùng núi. Họ chia thành nhiều nhóm nhỏ như Cà Dong, Đá Vách… với những đặc điểm riêng biệt.
Nhà ở của đồng bào thường là nhà sàn, mái lợp tranh lá. Họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắn và trồng trọt.
Cửa thành Quảng Ngãi, khoảng năm 1920-1929. Nguồn: flickr manhhai
Người Thượng có ngôn ngữ, phong tục tập quán riêng. Họ không có chữ viết, dùng gút dây để đánh dấu hoặc ghi nhớ. Trong đời sống cộng đồng, già làng là người có uy tín và quyền lực nhất.
Dấu Ấn Lịch Sử Trên Mảnh Đất Quảng Ngãi
Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử đáng tự hào, được minh chứng qua những di tích lịch sử còn sót lại:
-
Thành cổ Bùi Công: Nằm trên núi cao thuộc xã Đức Phổ, là minh chứng cho một thời kỳ lịch sử oai hùng.
-
Tỉnh thành Quảng Ngãi: Được xây dựng vào thời nhà Lê, trải qua nhiều lần dời và tu sửa.
-
Tổ đình Thiên Ấn: Ngôi chùa cổ kính được xây dựng từ thế kỷ 18, là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa tâm linh.
-
Văn Miếu: Công trình kiến trúc độc đáo thờ Khổng Tử, được xây dựng vào đầu thế kỷ 19.
Tượng đức Khổng Tử năm 1957 tại Văn Thánh (Văn Miếu) Quảng Ngãi. Ảnh: Nguyên Phong/báo Quảng Ngãi
-
Mộ Bùi Đô Đốc: Nơi an nghỉ của vị tướng tài ba, người có công dẹp giặc giữ yên bờ cõi.
-
Mộ Tạ Thu Thâu: Nơi tưởng niệm người chiến sĩ cách mạng, ghi dấu ấn của phong trào cách mạng Việt Nam.
-
“Đá ngựa”: Tảng đá in dấu chân ngựa của vua Gia Long, là chứng tích cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Kết Luận
Quảng Ngãi xưa hiện lên với những nét đặc trưng về địa lý, văn hóa và lịch sử. Vùng đất và con người nơi đây đã tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa Việt Nam. Những di tích lịch sử còn sót lại là minh chứng cho bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời của vùng đất này.