Kháng chiến chống quân Thanh và tiếng vọng lịch sử qua lăng kính thi ca

Lịch sử Việt Nam tự hào lưu giữ những áng văn thơ hùng tráng, ghi dấu những chiến thắng oai hùng của dân tộc trước các thế lực xâm lược. Nếu cuộc chiến thắng quân Tống của Lý Thường Kiệt được khắc họa qua bài “Nam Quốc Sơn Hà”, kháng chiến chống Nguyên Mông oai dũng với “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo, hay cuộc khởi phạt nhà Minh của Lê Thái Tổ in đậm dấu ấn với “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi, thì chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung trước quân Thanh cũng được soi rọi qua những vần thơ đầy xúc động của các thi nhân đương thời.

Bài viết này, dựa trên những sử liệu và thi ca quý báu, sẽ đưa chúng ta ngược dòng thời gian, trở về với không khí hào hùng của năm Kỷ Dậu (1789) để chiêm nghiệm tinh thần quật cường của dân tộc và vẻ đẹp bi tráng của lịch sử được khắc ghi qua ngòi bút tài hoa của các bậc văn nhân.

Chiến thắng vang vọng sử thi

Khác với triều đại nhà Nguyễn sau này, thơ văn thời Tây Sơn không phổ biến hình thức ca ngợi chiến công hiển hách của vua Quang Trung một cách trực tiếp. Tuy nhiên, ẩn sâu trong những áng văn chương của Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thì Nhậm,… là những dòng cảm xúc chân thật, những dòng sử bút ngầm ca ngợi chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn, phơi bày tội ác của quân Thanh và thể hiện niềm tự hào dân tộc sâu sắc.

Phan Huy Ích và nỗi niềm uất hận

dai thang vua quang trung nam 1789 92286356

Hình ảnh minh họa quân Tây Sơn đại phá quân Thanh

Phan Huy Ích (1751-1822), một đại Nho uyên bác, từng giữ chức Thị Thư trong triều Lê, đã để lại những vần thơ mang đậm dấu ấn lịch sử trong tập “Dụ Am Ngâm Lục”. Bài thơ “Mới nghe Tôn Tổng Đốc lui quân về thành Xương Giang ngẫu nhiên làm thơ” là một minh chứng rõ nét.

Vạn lý chinh huy viễn xuất cương,

Phù niên bài nạn điện Nam hoang.

Nghĩa thanh trực thúc khu xuyên nhạc,

Nhung mặc hà lao ngoại tuyết sương.

Phục quốc quân thần câu ngoạn yết,

Độ kiều nhân mã tối thương hoàng.

Khả lân sổ vạn thành biên cốt,

Oán khí tuỳ phong quá Thọ Xương.

Dịch nghĩa:

Vạn dặm binh cờ xuất cõi biên,

“Phò nguy trừ nạn” định phương Nam.

Nghĩa cao nếu đủ kêu sông núi,

Lều soái đâu cần trải tuyết sương.

Cứu nước vua tôi tham biếng nhác,

Qua cầu người ngựa luống kinh hoàng.

Thương thay mấy vạn quân thành ngoại,

Khí oán còn theo gió Thọ Xương.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh hùng hồn: “Vạn lý chinh huy viễn xuất cương”, “Phù niên bài nạn điện Nam hoang”, cho thấy cuộc hành quân xa xôi vất vả và tham vọng xâm lược của quân Thanh. Tuy nhiên, ẩn chứa trong đó là sự mỉa mai về danh nghĩa “phò nguy trừ nạn” giả tạo. Phan Huy Ích khẳng định, nếu quân Thanh có chính nghĩa, họ đã chẳng phải vượt ngàn dặm đến xâm lược Đại Việt.

Hình ảnh “Cứu nước vua tôi tham biếng nhác” là lời trách móc sâu cay dành cho vua tôi nhà Lê nhu nhược, bất lực trước giặc ngoại xâm. Kết thúc bài thơ là lời thương xót cho số phận bi thảm của hàng vạn quân Thanh bỏ mạng nơi đất khách quê người: “Khả lân sổ vạn thành biên cốt”, “Oán khí tuỳ phong quá Thọ Xương.”

Đoàn Nguyễn Tuấn và khúc ca hào hùng

Đoàn Nguyễn Tuấn (1750 – ?), một vị quan thanh liêm, tài hoa hơn người, từng giữ chức Thị Thư bên cạnh vua Quang Trung, đã ghi lại chiến thắng oai hùng năm Kỷ Dậu qua những vần thơ đầy xúc động.

Bài thơ “Sáng sớm ngày hai mươi bảy tháng mười một hạ được thành mừng làm thơ” là một tác phẩm tiêu biểu:

Nhất cổ anh linh khỡi bách linh,

Lục sư khí tráng đạp trùng thành.

Thần nhân nộ trục lôi đình tiết,

Hồn ế phân tuỳ hẵng giới thanh.

Nhật lãng vọng đài lai hải sắc.

Xuân hồi giao dã động sơn thanh.

Bồi loan qui chấp Bình Hoài bút,

Tổn duệ tráng ca phản ngọc kinh.

Dịch nghĩa:

Hồi trống oai linh dậy bách thần.

Sáu quân khí mạnh đạp trùng thành.

Thần người căm giận sấm thần đánh.

Mây khói sạch lâng tan móc sương.

Trời rạng vọng đài màu biển biếc.

Xuân về đồng nội tiếng non rừng.

Theo xe loan thẹn Bình Hoài bút,

Vung áo hát hoài về Ngọc Kinh.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh “hồi trống oai linh”, “sáu quân khí mạnh”, khí thế hừng hực của nghĩa quân Tây Sơn tiến đánh quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn sử dụng hình ảnh ẩn dụ “thần sấm”, “lôi đình”, thể hiện sức mạnh vô địch, sự căm phẫn của quân dân Đại Việt như vũ bão, quét sạch quân thù.

Hình ảnh thiên nhiên tươi sáng: “trời rạng”, “màu biển biếc”, “xuân về”, “non nước hữu tình” ở cuối bài thơ như một lời ca khải hoàn, khẳng định chiến thắng vẻ vang của dân tộc, đồng thời thể hiện niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của đất nước.

Ngô Thì Nhậm và lời chiêu dụ đầy nhân văn

Không chỉ là một nhà quân sự tài ba, vua Quang Trung còn là một vị vua nhân ái, thông hiểu lòng dân. Điều này được thể hiện rõ nét qua “Chiếu phân phối hành binh người nội địa (Mãn Thanh)” do Ngô Thì Nhậm (1746-1803), một khai quốc công thần nhà Tây Sơn, thảo.

Sau khi đánh tan quân Thanh, vua Quang Trung đã cho ban bố Chiếu phân phối hành binh, trong đó thể hiện rõ quan điểm nhân đạo của người đứng đầu một đất nước. Ông khẳng định:

Việc binh là việc tác hại cho dân thiên hạ. Đã đánh là phải thắng, cho nên khi hai bên đối địch, hễ thấy quân thù là giết. Đó là lệ thường trong việc dùng võ. Xưa nay chưa ai bắt được quân địch mà lại tha cả.

Tuy nhiên, với lòng nhân từ, vua Quang Trung đã không hề giết hại tù binh, mà còn ra lệnh “phân phối các người vào các cơ đội, sung vào quân ngũ, cấp cho lương thực, để các người khỏi bị gông cùm khổ sở”. Ông cũng bày tỏ mong muốn hòa bình, giao hảo với triều đình nhà Thanh:

Xưa nay các bậc vương giả coi bốn biển như một nhà. Trẫm cũng suy lòng Trẫm, thể tất lòng người, các người cần biết rõ, đừng có sợ hãi ngờ vực. Hãy dẹp lòng nhớ quê, để đền ơn tái tạo, tôn trọng tờ đặc chiểu này.

Chiếu phân phối hành binh của vua Quang Trung là một văn bản lịch sử có giá trị nhân văn sâu cả, nó cho thấy tầm nhìn chiến lược, tâm hồn bao dung, vĩ đại của người anh hùng áo vải Tây Sơn.

Hồi âm lịch sử và giá trị trường tồn

Chiến thắng của vua Quang Trung năm Kỷ Dậu 1789 không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, mà còn là minh chứng hùng hồn cho ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần tự lực tự cường của đất nước.

Qua lăng kính thi ca của các bậc văn nhân thời Tây Sơn, chúng ta thêm cảm phục, tự hào về truyền thống hào hùng của dân tộc và thêm trân trọng những giá trị lịch sử vô giá mà cha ông đã dày công vun đắp.

Tài liệu tham khảo:

  • Phan Huy Ích. Dụ Am ngâm lục. Nxb KHXH. Hà Nội 1978.
  • Đoàn Nguyễn Tuấn. Hải Ông thi tập.Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1982
  • Ngô Thì Nhậm. Thơ. nxb Văn Học. Hà Nội 1986.
  • Nguyễn Du toàn tập tập I. Nxb Văn Học. 1996
  • Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca. Hoàng Xuân Hãn tựa và bản. Trường Thi xuất bản. Sài Gòn 1956.
  • Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 5 quyển 2, Nxb Khoa Học Xã Hội. 2004
  • Lê Thành Khôi Histoire du Vietnam. Eds Asie du Sud Est. Paris 1982.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?