Cuối năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, làng tôi được chọn làm nơi tổ chức “Đại hội tập của Liên khu 10”. Hình ảnh những người lính vệ quốc quân hùng dũng diễu binh, cùng tiếng đại bác vang trời, đã khắc sâu vào tâm trí cậu học trò nhỏ là tôi một lòng ngưỡng mộ vô bờ. Vài năm sau, khi đang học tại trường trung học Hùng Vương – Phú Thọ, tôi và các bạn được nghe cán bộ các trường quân sự đến chiêu sinh. Trong số đó, anh Quế, cán bộ trường Thủy quân, với dáng người dong dỏng, nước da ngăm đen, đôi mắt sáng và giọng nói cuốn hút, đã thuyết phục chúng tôi bằng những câu chuyện về cuộc đời người lính thủy, về biển cả mênh mông và những chuyến đi đầy phiêu lưu. Lời kêu gọi của anh đã thắp lên trong chúng tôi ngọn lửa nhiệt huyết, thôi thúc chúng tôi xếp bút nghiên lên đường chiến đấu.
Nội dung
Xếp Bút Nghiên, Lên Đường Nhập Ngũ
Tối hôm đó, tôi hồi hộp thưa chuyện với thầy và bầm. Đất nước lâm nguy, thầy bầm đều hiểu và ủng hộ quyết định tòng quân của tôi. Niềm vui được cống hiến cho Tổ quốc hòa lẫn với nỗi lo xa nhà, nhớ thầy bầm, và cả sự thấp thỏm không biết có gặp lại anh Quế để xin vào Thủy quân hay không.
Gia Nhập Thủy Quân, Xuôi Dòng Về Phố Giàn
Ngày 16/1/1950, lễ xuất quân được tổ chức long trọng. Chia tay gia đình, bạn bè, chúng tôi lên đường ra thị trấn Sơn Dương. Tại đây, sau những giây phút bịn rịn, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người một ngả. Niềm vui vỡ òa khi tôi nghe tiếng gọi: “Lê Quang Loát! Về đoàn Thủy quân!”. Nguyện vọng của tôi đã thành hiện thực! Mười hai anh em chúng tôi, những tân binh Thủy quân khóa 1, hăm hở lên đường theo anh Quế.
Sau bữa cơm “tươi” ở Bình Ca, chúng tôi xuống thuyền xuôi dòng Đoan Hùng. Trên thuyền, anh Quế nghiêm nghị tuyên bố: “Từ giờ phút này các ‘cậu ấm’ đã là lính. Lính thì chỉ biết có nghe lệnh!”. Chúng tôi đồng thanh: “Rõ!!!”. Cuộc đời lính của chúng tôi bắt đầu từ đây.
Sáng hôm sau, thuyền cập bến ở ngã ba sông Chảy và sông Lô. Hành quân khoảng một tiếng đồng hồ, chúng tôi đến phố Giàn, một phố nhỏ ven sông Chảy, nơi được anh Quế giới thiệu là “thủ đô” của chúng tôi. Doanh trại nằm ở phía sau phố Giàn, gồm bốn khu: Hiệu bộ, tiểu đoàn bộ, đại đội 1 và đại đội 2. Nhà cửa đều bằng tranh tre nứa lá. Mười ngày sau, lễ khai giảng khóa học đầu tiên được tổ chức long trọng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời quân ngũ của chúng tôi.
Tháng Ngày “Cày Vỡ”
Tháng đầu tiên, chúng tôi học về điều lệnh tác phong. Quen với cuộc sống tự do, nay phải vào khuôn khổ, kỷ luật quân đội, chúng tôi không khỏi bỡ ngỡ. Những bài học tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng gian nan, vất vả. Các anh chỉ huy nói vui: “Vui thì nổ trời, mà học và tập thì chết thôi!”. Từ tuần lễ kỷ luật, tuần lễ nhanh chóng, đến tuần lễ báo động, chúng tôi miệt mài rèn luyện, ngày đêm sẵn sàng chiến đấu.
Tôi còn nhớ mãi anh Lê Trường Đa, đại đội trưởng của tôi, người nghiêm nghị nhưng giàu tình cảm. Ba anh trung đội trưởng: Dương Đình Ấu, Trần Kỳ, Trần Hùng, mỗi người một vẻ, đều nhiệt tình và mẫu mực. Đáng tiếc, cả ba anh sau này đều hy sinh ở chiến trường duyên hải Đông Bắc.
Sau một tháng học điều lệnh tác phong, chúng tôi bắt đầu học chuyên môn, chia làm hai ngành Hàng hải và Điện cơ. Tôi được xếp vào ngành Hàng hải. Những giờ học tín hiệu, nơ, nút, chèo thuyền trên sông Lô, sông Chảy, tuy vất vả nhưng đầy hào hứng. Thầy Quế, người cán bộ mà tôi từng ngưỡng mộ, nay lại là người thầy tận tình chỉ dạy chúng tôi.
Ăn Mặc Lính Thủy
Cuộc sống vật chất thời đó vô cùng khó khăn. Quần áo cũ sờn, rách tả tơi, chúng tôi tự nhuộm bằng lá cơi thành màu nâu xồng đặc trưng. Cơm gạo mạt, canh rau lõng bõng, nhưng bữa nào cũng hết veo. Có những ngày cuối tháng, hết tiêu chuẩn mỡ, chỉ còn canh rau luộc với muối. Vào những ngày lễ hoặc vài tuần một lần, chúng tôi mới được một bữa “tươi”, no nê, thoải mái. Chuyện ăn uống cũng lắm kỷ niệm. Vì cơm canh ít ỏi, anh em tranh nhau ăn, người nhanh no, kẻ chậm đói. Đại đội trưởng phải ra quy định: cử trưởng mâm, gõ bát làm hiệu lệnh xới cơm, chia canh, đảm bảo công bằng cho mọi người.
Ca Nhạc Kịch Lính Thủy
Giữa những gian khó, hoạt động văn nghệ là món ăn tinh thần không thể thiếu. Anh Ngô Thế Lãng với cây đàn ghi ta, Hoàng Luận với cây đàn violon, Nguyệt “đen” với tài kể chuyện, diễn kịch cương, đã mang đến cho chúng tôi những giây phút thư giãn, sảng khoái. Những đêm lửa trại, tiếng đàn, tiếng hát vang lên, xua tan mệt nhọc, thắp sáng niềm tin chiến thắng.
Kết luận: Hơn bốn mươi năm đã trôi qua, ký ức về những ngày đầu trong quân ngũ vẫn sống động trong tôi. Đó là những tháng ngày gian khổ nhưng hào hùng, đầy ắp kỷ niệm về tình đồng chí, đồng đội, về lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ một lòng vì nước, vì dân. Tinh thần Thủy quân Sông Lô năm xưa mãi là nguồn động viên, cổ vũ tôi trên bước đường tiếp theo.
Tài liệu tham khảo:
- Hồi ký “Thủy quân Sông Lô” do Đỗ Thái Bình biên tập.
- Dự án Nghiên cứu Quốc tế.