Câu chuyện về Lưu Bình và Dương Lễ, biểu tượng của tình bạn cao đẹp và ý chí vượt khó, đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt. Không chỉ phổ biến qua truyền miệng, câu chuyện còn được ghi chép thành thơ, phú, kịch bản chèo bằng chữ Hán, chữ Nôm và cả chữ Quốc ngữ, lưu truyền rộng rãi khắp mọi miền đất nước. Điều đặc biệt, câu chuyện này còn được đồng bào dân tộc Tày Nùng tiếp nhận và sáng tác lại bằng chữ Nôm Tày, minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn hóa dân gian Việt Nam.
Nội dung
Văn Bản Cổ: Cánh Cửa Mở Ra Kho Tàng Văn Hóa
Bản thảo Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện viết bằng chữ Nôm Tày, hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với ký hiệu ST 2237, chính là minh chứng cho khả năng thích ứng và sáng tạo của văn hóa dân gian. Được sao chép vào tháng hè năm Bảo Đại thứ 5 (1926) bởi ông Vương Hà Khánh, bản thảo là kết tinh của quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.
Trang bìa của văn bản Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện
Văn bản được viết trên giấy dó, bồi thêm một lớp giấy giữa các trang, bìa cứng màu nâu, cho thấy sự trân trọng của người xưa đối với văn hóa viết. Chữ viết trong bản thảo tuy không đều tay, nhưng vẫn thể hiện được sự tỉ mỉ và tâm huyết của người sao chép. Đặc biệt, việc sử dụng song song chữ Nôm Tày, chữ Hán và chữ Nôm Việt cho thấy sự am hiểu và uyên thâm của tác giả đối với các hệ thống chữ viết.
Nội Dung: Gìn Giữ Hồn Cốt Của Câu Chuyện Kinh Điển
Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện bản chữ Nôm Tày gồm 1297 câu thơ thất ngôn, chia thành 6 đoạn, tái hiện lại câu chuyện quen thuộc về tình bạn, lòng chung thủy và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Từ những chi tiết quen thuộc như Lưu Bình và Dương Lễ kết nghĩa, cùng nhau lên kinh đô theo học, cho đến những biến cố trong cuộc đời của Lưu Bình khi Dương Lễ đỗ đạt, tác phẩm đều bám sát cốt truyện gốc. Hình ảnh Dương Lễ cho người hắt hủi bạn, nàng Châu Long – người vợ hiền thục, đảm đang, hết lòng vì chồng – đều được khắc họa rõ nét.
Trang bìa của văn bản Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện
Tuy nhiên, bản chữ Nôm Tày không chỉ đơn thuần là bản sao của câu chuyện gốc. Qua lăng kính văn hóa của người Tày Nùng, tác phẩm mang trong mình những nét độc đáo riêng, thể hiện qua ngôn ngữ, giọng điệu và cách xây dựng tình huống.
Giá Trị: Nét Đẹp Văn Hóa Cần Được Lưu Giữ
Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện bản chữ Nôm Tày là một di sản văn hóa quý giá, góp phần khẳng định sự phong phú và đa dạng của văn học dân gian Việt Nam.
Tác phẩm không chỉ là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của câu chuyện Lưu Bình Dương Lễ, mà còn thể hiện sự giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc. Việc sử dụng chữ Nôm Tày, một loại chữ viết dựa trên chữ Hán nhưng có cách đọc, ngữ pháp riêng, là bằng chứng cho khả năng sáng tạo và bảo tồn văn hóa của đồng bào dân tộc Tày Nùng.
Kết Luận: Hành Trình Gìn Giữ Di Sản Văn Hóa
Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện bản chữ Nôm Tày là một phát hiện quan trọng, mở ra hướng nghiên cứu mới về văn học và chữ viết của người Tày Nùng. Việc dịch thuật, chú giải và phổ biến tác phẩm này là cần thiết để góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc.
Hơn thế nữa, Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện bản chữ Nôm Tày nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của văn hóa dân gian, khả năng kết nối và truyền tải những giá trị nhân văn sâu sắc qua nhiều thế hệ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa như Lưu Bình Dương Lễ cổ truyện bản chữ Nôm Tày càng trở nên cấp thiết, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong lòng thế giới đa dạng.
Tài Liệu Tham Khảo
- Hoàng Phương Mai. (2011). Nghiên cứu truyện thơ Lưu Bình Dương Lễ. Thông báo Hán Nôm học, tr.768–773.
- Hoàng Phương Mai. (2007). Giới thiệu tư liệu truyện thơ Nôm Tày hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Thông báo Hán Nôm học năm 2007.
- Hoàng Phương Mai. (2009). Công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày: đôi nét về thành tựu và triển vọng. Thông báo Hán Nôm học năm 2009.