Năm 1953, từ đỉnh cao nhất của thành phố Luang Prabang – thủ đô hoàng gia Lào, biểu tượng con rắn uốn mình trên mái ngôi đền hoàng gia như một lời nguyền về năm con rắn đầy lo sợ. Đối với người dân Đông Dương, đó không chỉ là lời đồn đại, mà còn là nỗi ám ảnh về mối đe dọa từ Trung Quốc cộng sản đang lớn dần ở phương Bắc. Bóng đen u ám phủ trùm lên toàn cõi Đông Dương, nơi cuộc chiến tranh dai dẳng giữa quân đội Pháp và lực lượng Việt Minh đang đi đến hồi kết.
Nội dung
Biểu tượng con rắn uốn mình trong không trung trên mái ngôi đền hoàng gia ở Luang Prabang
Từ Thất Thế Quân Sự Đến Bế Tắc Chính Trị
Sau hơn sáu năm sa lầy trong cuộc chiến tranh Đông Dương, quân đội Pháp dần đánh mất quyền kiểm soát vào tay Việt Minh. Ban ngày, họ cố gắng duy trì sự hiện diện mong manh trên một số tuyến đường huyết mạch, nhưng màn đêm buông xuống, Việt Minh lại chiếm ưu thế, kiểm soát các vùng nông thôn và thậm chí thu thuế, tuyển quân ngay trên vùng đất mà người Pháp tưởng như đang nắm giữ.
Hàng tỷ đô la và sinh mạng của những người con ưu tú nhất nước Pháp đã đổ xuống Đông Dương, nhưng đổi lại chỉ là sự thất bại ê chề. Người Pháp đã không thể dập tắt ngọn lửa kháng chiến mãnh liệt của người dân bản địa, và cũng không đủ khôn khéo để nhận ra rằng độc lập cho Đông Dương chính là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình. Giờ đây, khi đối mặt với nguy cơ thất bại hoàn toàn, họ dường như chỉ còn biết trông chờ vào một phép màu nào đó để thoát khỏi vũng lầy này.
Pháo đài cổ này, bao quanh bởi nước và hàng rào dây thép gai, là một phần của mạng lưới phòng thủ phủ khắp đồng bằng sông Hồng. Nó tượng trưng cho tinh thần của quân đội Pháp ở Đông Dương, giống như vai trò trước đây của tuyến phòng thủ Maginot Line ở châu Âu.
Những làn sóng chiến tranh dồn dập đã giúp quân cộng sản Việt Minh kiểm soát hiệu quả phần lớn lãnh thổ Việt Nam (phần màu hồng và đỏ trên bản đồ), quốc gia chủ chốt của Đông Dương.
Sự Trì Trệ Và Mục Ruỗng Của Một Chế Độ
Cuộc chiến tranh Đông Dương không chỉ là cuộc chiến giữa hai lực lượng quân sự, mà còn là cuộc chiến giữa một bên là chế độ thực dân đã mục ruỗng và một bên là làn sóng dân tộc dâng cao. Sự trì trệ bao trùm từ hậu phương đến tiền tuyến. Các sĩ quan Pháp sống trong nhung lụa, hưởng thụ cuộc sống xa hoa trong khi binh lính dưới quyền phải đối mặt với hiểm nguy. Tệ nạn tham nhũng lan tràn khắp mọi ngõ ngách của xã hội, từ những giao dịch nhỏ nhặt đến những thương vụ làm ăn lớn.
Vào giờ nghỉ trưa ở đại bản doanh quân Pháp tại Hà Nội, tôi bắt gặp cơ quan đầu não chiến tranh này vắng tanh – ngày nào trong tuần nó cũng vắng tanh như thế trong khoảng từ 12:30 đến 4:30. Văn phòng của vị tướng tư lệnh nằm sau cửa chớp ở góc trên bên trái.
Tư lệnh vắng mặt: vị đại tá phụ trách một đồn binh gần biên giới Trung Quốc, vẫn chưa trở lại trụ sở vào lúc 4:15 chiều. Tôi bước vào và chụp hình bàn làm việc của ông ta.
Viên lính gác xuất chúng, một người Maroc, ngồi trên triền đồi dưới một cái chòi che mưa nắng để lộ vị trí của anh ta. Hình này được chụp ở gần Lai Châu, nơi du kích hoành hành đầy các vùng đồi.
Nỗi Đau Của Người Dân Đông Dương
Giữa cuộc chiến tranh khốc liệt, người dân Đông Dương phải gánh chịu những mất mát và đau thương chồng chất. Họ bị ép buộc chiến đấu và hy sinh cho một cuộc chiến mà họ không hề mong muốn. Những ngôi mộ tập thể, những tiếng khóc xé lòng của những người vợ mất chồng, những đứa con mất cha là minh chứng rõ nét nhất cho sự tàn khốc của chiến tranh.
Lính người Việt bị thương được điều trị trong các lều Quonset nằm giữa vùng bùn lầy mà Hoa Kì cung cấp cho quân đội [Quốc gia] Việt Nam. Một con ngỗng đang uống nước từ vũng nước đọng.
Lính Việt Nam tử trận được các tù binh chiến tranh chôn cất trong nghĩa trang quân đội dành cho những binh sĩ không phải người Pháp.
Vợ góa của người lính đang gục xuống khóc thương chồng.
Đôi mắt nhìn tôi không chớp từ trên giường bệnh, cái nhìn gợi tôi nhớ đến một con linh dương khốn khổ.
Nỗi căm ghét ngấm ngầm dường như đang tỏa ra từ một người khác, người này đã bị thương vỡ xương vai
Nỗi tuyệt vọng hiện lên trong từng nếp nhăn trĩu nặng của người thứ ba. Hai chân anh ta đang dần dần bị hoại tử
Hy Vọng Mong Manh Về Một Tương Lai Tự Do
Bất chấp những khó khăn chồng chất, người dân Đông Dương vẫn không từ bỏ hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Họ khao khát độc lập, tự do và một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Làn sóng dân tộc dâng cao, thôi thúc họ đứng lên đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của mình.
Giữa lúc này, sự can thiệp ngày càng sâu rộng của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Đông Dương đã gieo rắc thêm nhiều bất ổn và nghi ngờ. Liệu sự hiện diện của người Mỹ có thực sự giúp ích cho Đông Dương, hay chỉ là một hình thức thực dân mới? Câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ, nhưng một điều chắc chắn rằng, tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào chính người dân nơi đây, và vào sự lựa chọn của họ cho số phận của chính mình.
Những người dân hiếu kỳ, hầu hết vẫn chưa tin rằng họ có một vai trò trong cuộc chiến, đứng dưới tấm bích chương tuyển quân để xem cuộc diễu hành của quân đội.
Khởi đầu của một quốc gia đủ hùng mạnh để bảo vệ chính mình có thể được nhìn thấy ở những người lính Việt Nam đang diễu hành qua các con phố ở Hà Nội, kỉ niệm ngày thành lập nước Việt Nam thông qua việc thống nhất Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì. Được trang bị súng trường và súng tiểu liên Thompson của Hoa Kì, đây là các đơn vị thuộc quân đội quốc gia mới thành lập.
Bài Học Lịch Sử Vẫn Còn Nguyên Giá Trị
Câu chuyện về năm con rắn 1953 ở Đông Dương là một lời nhắc nhở về những đau thương mất mát mà chiến tranh gây ra, và về khát vọng tự do mãnh liệt của con người. Nó cũng đặt ra những câu hỏi về vai trò của các cường quốc trong việc giải giải quyết xung đột quốc tế, và về trách nhiệm của mỗi chúng ta trong việc xây dựng một thế giới hòa bình và công bằng hơn.
Tài liệu tham khảo:
- Duncan, David Douglas. This Is War! A Photo-Essay of the Korean War. New York: Da Capo Press, 1990.
Chú thích:
[1]: Ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau nhiều tháng đàm phán, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp định Élysée (1949) tuyên bố thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại, thủ đô đặt tại Sài Gòn. Năm 1955, Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, từ đó tên gọi Quốc gia Việt Nam không còn được sử dụng nữa.
[2]: Bức màn sắt (the iron curtain) là một ẩn dụ chính trị được dùng để chỉ ranh giới chia rẽ giữa hai phe châu Âu sau khi Đệ nhị Thế Chiến kết thúc vào năm 1945. Một phe gồm các nước tư bản phương Tây, một phe gồm Liên Xô và các nước chư hầu. Sau này tên gọi bức màn sắt cũng được dùng để chỉ hệ thống biên giới phòng thủ vật lí giữa các quốc gia Tây Âu và Đông Âu, trong đó có bức tường Berlin. Khái niệm này còn được sử dụng rộng rãi đến khi thời kì Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991.