“Họ là những người quê mùa non nước Việt
Sống cần lao bên ruộng lúa đồng khoai
Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi
Nước Việt sống vì mồ hôi họ đổ.”Nội dung bài viết
– Bàng Bá Lân
Giữa dòng chảy lịch sử đầy biến động, với gần một thế kỷ chìm trong chiến tranh và hỗn loạn, tinh thần văn hóa Việt Nam vẫn kiên cường tồn tại, khẳng định bản sắc độc đáo của dân tộc. Mọi âm mưu đồng hóa hay xóa bỏ nền tảng văn hóa ấy đều đã thất bại.
Vậy, đâu là cốt lõi của văn hóa Việt?
Chính là văn hóa nông nghiệp – một nền tảng vững chắc xuyên suốt chiều dài lịch sử, in dấu ấn đậm nét lên mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của người Việt.
Văn Hóa Của Đất Và Người
Trên thế giới, nông nghiệp hiện diện ở khắp mọi nơi, nhưng không phải ở đâu, nghề nông cũng trở thành nền tảng văn hóa vững chắc như ở Việt Nam. Văn hóa nông nghiệp Việt Nam là sự kết tinh hài hòa giữa con người và đất, là quá trình khai phá tự nhiên song hành cùng khai sáng tâm linh, với người nông dân là lực lượng nòng cốt và tầng lớp trí thức là những người dẫn dắt.
Khác với quan niệm về một thế giới được tạo ra bởi đấng tối cao như trong Kinh Thánh hay thần thoại Hy Lạp, người Việt, tương tự như người Trung Quốc với truyền thuyết Bàn Cổ khai thiên闢地, tin rằng thế giới được hình thành từ chính bàn tay lao động và trí tuệ của con người. Nếu như người Hy Lạp cổ đại tin rằng lửa được lấy từ thiên đường bởi vị thần Prometheus, thì người Việt và người Trung Quốc lại truyền tụng câu chuyện về vị thần Toại Nhân燧人氏 tạo ra lửa bằng cách cọ xát gỗ. Tương truyền, Phục Hi伏羲 đã dạy con người kết lưới đánh cá, thần nông氏 dạy trồng lúa, còn hình ảnh Bàn Cổ tay cầm búa khai thiên lập địa chính là biểu tượng cho sức mạnh của người nông dân trong công cuộc chinh phục tự nhiên.
Nông nghiệp không chỉ đơn thuần là hoạt động kinh tế, mà còn là một triết lý sống, một đạo lý, “nông nghiệp chi đạo”. Nó đại diện cho sự sống bất tận, cho đất trời bao la, cho thời gian tuần hoàn với nắng mưa, bão giông, cho quy luật sinh trưởng của vạn vật.
Nông Nghiệp: Nghề Và Đạo
Công việc của người nông dân gắn liền với ruộng đồng, với việc gieo trồng, chăm bón và thu hoạch cây trái, chăn nuôi gia súc. Ca dao Việt Nam đã phác họa sinh động bức tranh lao động nông nghiệp quanh năm:
“Kể việc làm ruộng mọi đường
Tôi xin kể được rõ ràng hử ai
Tháng Chạp là tiết trồng khoai
Tháng Giêng tưới đậu, tháng Hai cấy cà
Tháng Ba cày bửa ruộng ra
Tháng Tư bắc mạ thuận hòa vui thay
Tháng Năm cắt lúa vừa rồi
Tháng Sáu mưa xuống nước trôi đầy đồng
Tháng Bảy cày cấy đã xong
Tháng Tám thấy lúa tốt dòng vui thay
Tháng Chín tôi kể lại nay
Bắc mạ xem được mới hay trong lòng
Tháng Mười lúa chín đầy đồng
Cắt về đổ cót để phòng năm sau
Tháng Mười là tiết cấy sâu
Một năm kể cả tự đầu đến đuôi
…
Nhờ trời mưa thuận gió hòa
Nào cày nào cấy trẻ già khuyên nhau
Chim gà cá lợn cành cau
Mùa nào thức ấy giữ màu hương quê”
Vừa vun trồng, chăm sóc, nuôi dưỡng sự sống, người nông dân cũng dựa vào đó để duy trì sự sống của chính mình. Sự sống trong quan niệm của người nông dân được hình thành từ ba nguồn:
- Sinh liễu hựu sinh生生之謂易: Sự sống sinh sôi, nảy nở. Cỏ cây đâm chồi nảy lộc, sinh ra cây cỏ khác, vạn vật nương tựa vào nhau mà sinh tồn. Kinh Dịch có câu: “Nhất dương sơ động xứ, vạn vật thủy sinh thời”, ánh dương vừa hé rạng, muôn loài bừng tỉnh sau giấc ngủ đông. Hạt giống gieo xuống đất, nhờ tinh khí đất trời mà nảy mầm sinh trưởng. Bởi vậy mới nói: “Thiên hạ chi đại đức viết sinh”, đức lớn nhất của trời đất là tạo ra sự sống. Và người nông dân chính là hiện thân của đức lớn lao ấy.
- Do chủng nhi sinh: Sự sống từ gieo trồng mà thành.
- Do tính nhi sinh: Sự sống từ tình yêu mà sinh ra. Hoa kết trái nhờ sự thụ phấn, động vật sinh sản nhờ tinh trùng, tất cả đều là kết quả của sự hòa hợp âm dương. Người xưa quan niệm, âm dương tuy đối lập nhưng lại tương hỗ, tương sinh. Nông nghiệp là sự hòa hợp vĩ đại của âm dương, của trời đất. Người quân tử noi theo đạo trời đất, lúc cương lúc nhu, khi mạnh mẽ lúc uyển chuyển. Âm dương hòa hợp thì vạn vật sinh sôi, đất nước thái bình.
Đất – Nền Tảng Của Văn Hóa Và Tinh Thần
Đất đai là tài sản quý giá nhất của người nông dân. Đó là nơi chôn rau cắt rốn, nơi nuôi sống con người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mảnh đất ấy chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, ghi dấu những vui buồn, hy vọng và cả những mất mát, đau thương. Văn hóa nông nghiệp coi trọng sự ổn định, gắn bó với nguồn cội. Người nông dân gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương, coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, tôn kính các vị anh hùng dân tộc như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Lao động không chỉ để mưu cầu cuộc sống ấm no mà còn là để tạo dựng và gìn giữ đất nước. Người nông dân đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng.
Tinh thần “án thổ đôn hồ nhân安土敦乎仁” (gắn bó với đất đai, vun dựng tình nghĩa) luôn ăn sâu vào tiềm thức của người Việt. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta đã kiên cường chống chọi với thiên tai, giặc giã, bảo vệ vững chắc từng tấc đất cha ông.
“Bất năng an thổ, tiện hội thắng không, tức bất trước địa, diệc bất trước thiên, chung ư hôn mê, chung ư nhuyễn nhược, chung ư hoành bạo, chung ư đảo hạ” – Nếu không bám chắc lấy đất, chắc chắn sẽ thất bại, không được đất giúp, trời cũng không dung, rồi sẽ rơi vào u mê, nhu nhược, hoang dâm, tàn bạo rồi sụp đổ.
Văn hóa nông nghiệp cũng là văn hóa ứng xử hài hòa với thiên nhiên, tuân theo quy luật tự nhiên: “Nhật vãng tắc nguyệt lai, nhật lai tắc nhật vãng, nhật nguyệt tương di nhi minh sinh yên. Hàn lai tắc thự vãng, thự lai tắc hàn vãng, hàn thự tương suy nhi thế thành yên”. Mặt trời lặn thì mặt trăng lên, mặt trăng lặn thì mặt trời lên, luân phiên nhau như thế, để rồi tạo nên ánh sáng. Lạnh đến cực điểm rồi chuyển sang nóng, nóng đến cực điểm rồi chuyển sang lạnh, lạnh, nóng nối tiếp nhau mà thành bốn mùa.
“Tháng Giêng chân bước đi cày
Tháng Hai vãi lúa ngày ngày siêng năng
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng
Tháng Mười gặt lúa ta ăn đầy nhà”
Người nông dân làm nông nghiệp theo đúng thời vụ, không được sớm, cũng không được muộn, “dĩ thời vi thiên”. Chính trị cũng vậy, người quân tử phải biết “thời trung”, “thời” là thời cơ, “trung” là hành động đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với hoàn cảnh.
Văn hóa nông nghiệp là văn hóa thực tiễn, ít hoa mỹ, không cầu kỳ. Người nông dân hiểu rằng, phải trải qua quá trình lao động vất vả, “bất thị nhất phiên hàn triệt cốt, tranh đắc mai hoa phác tị hương”. Phải có những ngày đông giá rét, thì hoa mai mới tỏa hương thơm ngát.
“Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu
Công lênh chẳng quản lâu lâu
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng
Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”
“Thiên địa thuận nhi tứ thời đương, dân hữu đức nhi ngũ cốc sương” – Trời đất thuận hòa bốn mùa, dân có đức thì ngũ cốc 풍년. Nông nghiệp là sự nghiệp của đất trời, của lòng người.
Sức Mạnh Từ Những Con Người “Bất Yểm Tân Khổ”
Gắn bó với ruộng đồng, người nông dân thấu hiểu quy luật “sinh-lão-bệnh-tử” của vạn vật. Từ khi một hạt mầm vươn khỏi mặt đất cho đến khi cây héo úa, từ khi một sinh linh cất tiếng khóc chào đời cho đến khi trở về với đất mẹ, tất cả đều là những chu trình tự nhiên. Chính vì hiểu rõ những thăng trầm của cuộc sống, người nông dân luôn bình tĩnh trước mọi biến cố, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
*”Càng khổ bao nhiêu càng chân thành bấy nhiêu.
Khó khăn thay công việc nhà quê
Cùng năm khó nhọc dám hề khoan thai
Tháng Chạp thì mắc trồng khoai
Tháng Giêng trồng đậu tháng Hai trồng cà
Tháng Ba cày vỡ ruộng ra
Tháng Tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng Năm gặt hái xong rồi
Bước sang tháng Sáu nước trôi đầy đồng
Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa
Tháng Sáu tháng Bảy khi vừa
Vun trồng giống lúa, bỏ chừa có gianh
Tháng Tám lúa rỗ đã đành
Tháng Mười cắt hái cho nhanh kịp người
Khó khăn làm mấy tháng trời
Lại còn mưa nắng vất thời khổ trông
Cắt rồi nộp thuế nhà công
Từ rày mới được yên lòng ấm no.”*
Tinh thần “bất yểm tân khổ” (không ngại gian khó) đã trở thành bản lĩnh, là sức mạnh giúp người nông dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong lịch sử. Họ không sợ hy sinh, không sợ mất mát, vì trong tiềm thức của họ, chết không phải là hết, mà là trở về với đất mẹ. Chính vì vậy, người nông dân Việt Nam luôn lạc quan, yêu đời.
*”Thiên địa có khai phá được hay không?
Đồng ruộng có được xanh tốt màu mỡ hay không?
Đất nước có được bảo vệ hay không?
đều tùy thuộc tinh thần không sợ tân khổ.”*
Nhà nho Việt Nam xưa đã thấu hiểu sức mạnh to lớn của người nông dân, coi trọng việc “dĩ nông vi bản” (lấy nông nghiệp làm gốc). Họ đã liên kết và giáo dục tinh thần cho người nông dân để tạo nên một khối đại đoàn kết vững mạnh:
– Dĩ nông dân vi thiên địa chi tâm (Lấy nông dân làm con tim của trời đất).
“Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời hiếu trung”
– Dĩ nông dân vi đại địa chi tử (Lấy nông dân làm con yêu của đất lớn).
“Lạy trời mưa thuận gió đều
Cho đồng lúa tốt cho chiều lòng em”
– Dĩ nông dân vi tinh thần chi thực thể (Lấy nông dân làm thực thể của tinh thần)
“Nhác trông sao Đẩu về Đông
Chị em ra sức cho xong ruộng này
Lấm lem tay cắm chân cày
Hay trồng cây ngọc có ngày hữu thu”
– Dĩ nông dân vi an định chi lực lượng (Lấy nông dân làm lực lượng nền móng)
Khác với nông dân Châu Âu thời Trung Cổ bị ràng buộc bởi lãnh chúa, người nông dân Việt Nam tự do canh tác trên mảnh đất của mình. Hàng triệu mảnh đất nhỏ bé ấy đã tạo nên bức tường thành vững chắc bảo vệ đất nước. Pierre Gourou đã nhận xét:
“Hãy nhìn sự bành trướng mở mang của dân tộc Việt trong lịch sử, với ruộng lúa xanh ngắt, làng xã khắp nơi với những con người quen bám chặt lấy đất cùng nền văn hóa nông nghiệp kiện toàn. Giống như loài hà ngoài biển tới đâu là sinh sôi nẩy nở gắn chặt lấy đó, xúm xít lại không cách gì làm cho nó rời ra. Rồi một lối sống được xây dựng chặt chẽ. Bởi vậy, dân tộc Việt, mặc dầu đã nhiều lần trong quá khứ bị giống Chàm thiện chiến, hung tợn đánh bại, nhưng kết cuộc dân tộc Việt đã tiêu diệt giống nòi Chàm. Đến nay, vết tích Chàm gần như mất hẳn, trong khi lối sống Việt đã tràn ngập, chỉ còn lại ít khác biệt còn có thể nhận thấy trên hình thù phần mộ, kiểu mái nhà ở và các loại cây mang tính chất địa phương mà thôi”.
Văn Hóa Nông Nghiệp Trong Dòng Chảy Văn Minh
Trong bối cảnh thế giới hội nhập, văn hóa nông nghiệp đứng trước những thách thức từ văn minh công nghiệp hiện đại. Vậy làm thế nào để gìn giữ và phát huy những giá trị của nền văn hóa truyền thống?
Câu trả lời nằm ở sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Chúng ta không nên bài xích văn hóa công nghiệp, mà cần phải tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nền văn minh này. Đồng thời, cần phải giữ gìn và phát huy những giá trị nhân văn của văn hóa nông nghiệp, để xây dựng một xã hội Việt Nam giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc.