Dòng sông Cửu Long, hay còn được biết với tên gọi quốc tế là sông Mekong, là một trong những dòng sông dài nhất thế giới, mang trong mình dòng chảy lịch sử và văn hóa của nhiều quốc gia. Hành trình của nó bắt nguồn từ vùng núi cao tỉnh Thanh Hải (Trung Quốc), xuyên qua Tây Tạng, Vân Nam, rồi đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và cuối cùng là Việt Nam. Câu chuyện về tên gọi của dòng sông này, đặc biệt là tên gọi “Cửu Long” ở Việt Nam, chứa đựng nhiều điều thú vị và những suy đoán lịch sử đầy tính nhân văn.
Nội dung bài viết
Dòng Chảy Lịch Sử và Văn Hóa
Từ thượng nguồn, người Tây Tạng gọi sông Mekong là Dza Chu (Trát Khúc), hợp lưu với Ngang Khúc tạo thành Lan Thương Giang (con sông lượn sóng) trước khi rời khỏi Trung Quốc. Đến Lào và Thái Lan, tên gọi chuyển thành Mekong hay Mekang, mang ý nghĩa “Sông Mẹ” hoặc “Sông Lớn”, một tên gọi xuất hiện từ khoảng thế kỷ XI khi người Thái di cư về phía nam. Người Khmer gọi sông là Mekongk hay Tông-lê Thơm (Sông lớn).
Khi vào Việt Nam, từ Phnom Penh, sông Mekong chia thành hai nhánh chính: Tiền Giang và Hậu Giang, tạo nên một mạng lưới sông ngòi chằng chịt và phì nhiêu ở Nam Bộ. Tiền Giang lại chia thành bốn nhánh nhỏ, đổ ra biển qua sáu cửa: Mỹ Tho (cửa Đại, cửa Tiểu), Hàm Luông, Cổ Chiên (cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu), và Ba Lai (hiện nay đã bị ngăn lại bởi hệ thống cống đập Ba Lai). Hậu Giang đổ ra biển qua ba cửa: Định An, Ba Thắc (đã bị bồi lấp), và Tranh Đề. Ngoài ra, còn nhiều cửa sông khác như Bãi Ngao, Gành Hào, Cửa Lớn, Bồ Đề, Ông Đốc, và Rạch Giá.
Cửu Long: Chín Rồng hay Chín Klong?
Tên gọi “Cửu Long” thường được hiểu là “chín con rồng”, tượng trưng cho chín cửa sông đổ ra biển Đông. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng “Cửu Long” là phiên âm từ Mekongk (Khmer) hoặc Mekong (Thái). Nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường lại đưa ra giả thuyết “Cửu Long” là phiên âm từ Klong (Malaysia) và cho rằng nếu đếm kỹ thì chỉ có tám cửa sông.
Các sử liệu Việt Nam ghi chép tên gọi dòng sông này rất đa dạng. Đại Nam thực lục ghi là sông Khung, Sử lục bị khảo ghi là sông Lan Thương, Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức là người đầu tiên chính thức ghi tên sông Cửu Long, và sau này tên gọi này được sử dụng trong Đại Nam Nhất Thống Chí.
Từ Mekong đến Cửu Long: Một Sự “Việt Hóa”?
Một giả thuyết được đặt ra là tên gọi “Cửu Long” chính là sự “Việt hóa” từ “Mekong” bởi những lưu dân người Việt đến khai hoang vùng đất Nam Bộ dưới thời chúa Nguyễn. Trong hoàn cảnh xa quê, đối mặt với thiên nhiên hoang dã và nhiều hiểm nguy, việc sử dụng một tên gọi gần gũi, dễ giao tiếp với cư dân địa phương là điều dễ hiểu. Hơn nữa, trong tâm thức người Việt, sông lớn, núi cao thường gắn liền với hình ảnh các vị thần linh, mà rồng là linh vật tiêu biểu, là chủ nguồn nước. Việc sông đổ ra biển qua nhiều cửa, mà “không ai đếm được” bao nhiêu, khiến người ta dùng số “chín” (Cửu) – con số tròn đầy, viên mãn, biểu trưng cho sự thịnh vượng – để gọi tên dòng sông.
Cửu Long: Một Tên Gọi Đầy Tính Sáng Tạo
Dù nguồn gốc chính xác của tên gọi “Cửu Long” vẫn còn là một đề tài thảo luận, nhưng không thể phủ nhận tính sáng tạo và ý nghĩa sâu sắc của nó. Tên gọi này không chỉ phản ánh sự giao thoa văn hóa giữa người Việt và các dân tộc láng giềng mà còn thể hiện niềm tin và sự tôn kính của người Việt đối với dòng sông đã nuôi sống và gắn bó với họ qua bao thế hệ. “Cửu Long” không chỉ là một cái tên, mà còn là một biểu tượng văn hóa, một phần không thể tách rời của lịch sử và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
- Đại Nam thực lục; Quốc Sử Quán triều Nguyễn; Tập 9; NXB Giáo dục, 2000.
- Đại Nam nhất thống chí; Quốc Sử Quán triều Nguyễn; Tập 5; NXB Thuận Hóa; 1993.
- Sử học bị khảo; Đinh Xuân Bảng; Viện Sử Học, 1997.
- Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức, NXB Giáo Dục, 1999.
- Petit cours de geographie de la Basse – Cochichine. Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1875.
- Sử Việt đọc vài quyển, Tạ Chí Đại Trường, 2006 (bản sách điện tử).
- Địa danh Việt Nam, Nguyễn Văn Âu, NXB Giáo Dục, 1993.