Nội dung
Vào ngày 20 tháng 7 âm lịch năm Quý Dậu (1813), trên hành trình đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã đặt chân đến vùng đất Vĩnh Châu. Nơi đây gợi nhắc trong ông nỗi niềm đồng cảm với bậc tiền hiền Liễu Tông Nguyên, một vị quan thanh liêm, một nhà văn tài hoa từng bị đày ải đến vùng đất này hơn 1000 năm trước.
Liễu Tông Nguyên – Tấm Gương Sáng Về Văn Tài Và Đức Độ
Liễu Tông Nguyên (773-819), tự là Tử Hậu, quê ở Hà Đông, nay thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là một trong “Đường Tống bát đại gia” – tám nhà văn hóa lớn thời Đường – Tống. Năm 20 tuổi, Liễu Tông Nguyên đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Lễ Bộ Viên ngoại lang. Vì bất đồng quan điểm với phe cánh hoạn quan đương thời, ông bị giáng chức làm Tư Mã ở Vĩnh Châu, tức vùng đất Nguyễn Du đi qua.
Tại Vĩnh Châu, chứng kiến cảnh dân chúng cơ cực vì sưu cao thuế nặng, Liễu Tông Nguyên đã viết bài “Bổ Xà Thuyết” (Lời Người Bắt Rắn) nhằm lên án chế độ thuế khóa hà khắc, vạch trần bộ mặt tàn nhẫn của tầng lớp quan lại. Mười năm sau (815), ông được bổ nhiệm làm Thứ sử Liễu Châu và mất tại đây vào năm 819, thọ 46 tuổi.
Bài Thơ “Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu” – Nỗi Niềm Tri Âm Của Nguyễn Du
Cảm động trước tấm gương của Liễu Tông Nguyên, Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ “Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu” để bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc:
Núi Hành mây nổi sóng sông Tiêu,
Có phải nhà xưa của Liễu Châu ?
Ruồng rẩy một thân non vạn dậm,
Tiếng tăm nghìn thuở tám văn hào.
Máu bầm, mặt đẫm trong cùng khổ,
Cây đẹp, khe trong tiếng dại đầu.
Ta trẻ tưởng tài như gỗ quý,
Bạc đầu than vãn gió thu sầu.
(Nhất Uyên dịch thơ)
Hai câu thơ đầu là lời tự hỏi của Nguyễn Du khi đặt chân đến Vĩnh Châu, nơi in dấu những năm tháng bị lưu đày của Liễu Tông Nguyên. Hình ảnh “núi Hành mây nổi, sóng sông Tiêu” vừa gợi lên cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa ẩn chứa sự phiêu bạt, lênh đênh của những thân phận tài hoa bị hắt hủi.
Câu thơ “Ruồng rẩy một thân non vạn dậm” thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với Liễu Tông Nguyên. Cả hai đều là những bậc tài danh, mang trong mình hoài bão lớn lao nhưng lại bị chèn ép, đẩy đến những miền đất xa xôi. Dù vậy, giữa dòng đời dâu bể, tiếng thơm về tài năng và đức độ của họ vẫn vang vọng mãi với non sông đất nước: “Tiếng tăm nghìn thuở tám văn hào”.
Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du mượn điển tích trong bài “Ngu Khê Thi” của Liễu Tông Nguyên để nói về nỗi đau của người quân tử bị chèn ép:
“Cây đẹp, đá lạ được xếp đặt đều là cảnh sơn thủy kỳ dị, vì tôi ngu mà phải ngu theo. Nước là cái mà kẻ trí yêu thích. Nay cái khe ấy lại bị nhục vì ngu là tại sao ?”
Hình ảnh “máu bầm, mặt đẫm” là ẩn dụ cho những đắng cay, tủi nhục mà người quân tử phải gánh chịu. Còn “cây đẹp, khe trong” tượng trưng cho tài năng, phẩm giá của họ bị chôn vùi, lãng quên.
Kết thúc bài thơ là tiếng lòng đầy xót xa, nuối tiếc của Nguyễn Du:
Ta trẻ tưởng tài như gỗ quý,
Bạc đầu than vãn gió thu sầu.
Câu thơ như lời tự vấn của chính tác giả khi thời gian trôi qua, tuổi đời đã xế bóng mà hoài bão vẫn chưa thành.
Bài thơ “Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu” là minh chứng cho sự gắn kết giữa hai tâm hồn lớn, cùng mang trong mình hoài bão giúp đời, giúp nước nhưng lại gặp phải những bất công, trắc trở. Qua đó, Nguyễn Du muốn gửi gắm thông điệp về sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với những tấm gương sáng về văn tài và đức độ, đồng thời bày tỏ nỗi niềm u uất của mình trước thời cuộc.
“Lời Người Bắt Rắn” – Tiếng Kêu Cứu Xót Xa Cho Dân Tộc
Tại Vĩnh Châu, Liễu Tông Nguyên đã viết tác phẩm “Bổ Xà Thuyết”, hay còn được biết đến với cái tên “Lời Người Bắt Rắn”. Bài thơ là lời kể của một người đàn ông họ Tưởng, ba đời
gia truyền nghề bắt rắn độc để được miễn thuế. Qua đó, Liễu Tông Nguyên đã vạch trần chế độ thuế khóa hà khắc, bóc lột tàn bạo của triều đình phong kiến, đẩy người dân vào cảnh bần cùng, cơ cực.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh con rắn độc, ẩn dụ cho sưu thuế:
Đồng Vĩnh Châu có lạ kỳ loài rắn,
Thân mình đen vần trắng vòng viền.
Bò ngang cỏ héo cây tàn,
Cắn nhầm nọc độc vô phương cứu người.
Con rắn độc ẩn mình trong đám cỏ úa, cây tàn, cũng như sưu thuế len lỏi vào từng ngóc ngách đời sống, b搾取 kiệt sức người dân lao động.
Để được miễn thuế thân, người dân Vĩnh Châu phải liều mình vào rừng sâu săn bắt rắn độc. Người đàn ông họ Tưởng chia sẻ:
Lệ mỗi năm hai lần trưng nạp,
Kén chọn người bắt rắn đặc ân.
Miễn cho khỏi đóng thuế thân,
Vĩnh Châu dân chúng tranh công việc này.
Ông đã nối nghiệp cha, ông nội, ba đời làm nghề nguy hiểm này. Gia đình ông cũng như bao gia đình khác ở Vĩnh Châu, đều bị đẩy đến bước đường cùng, phải đánh đổi mạng sống để tồn tại.
Lời tâm sự của người đàn ông họ Tưởng với vị quan Tư Mã Liễu Tông Nguyên là tiếng kêu ai oán đầy phẫn uất:
“Ngài thương mà cứu giúp giùm,
Bỏ sưu nạp thuế tôi càng khổ hơn.
Không bắt rắn tôi càng bất hạnh.
Nhà ba đời đã sáu chục năm,
Xóm làng cùng cực mưu sinh,
Sưu cao thuế nặng, vét bòn chẳng ra.
Cùng bỏ đi dọc đường đói khát,
Đội gió mưa nhiễm nóng lạnh đau.
Thóp thoi mà chết nối nhau.
Đời ông mười hộ trước sau chẳng còn.
Cùng cha tôi mười nhà chung xóm,
Nay chẳng còn được đến đôi ba.
Cùng tôi mười hai năm qua,
Mười nhà còn chẳng được là bốn năm.
Nếu không chết cũng đi biệt xứ.
Chỉ còn tôi bắt rắn đến giờ.
Lính lại hung dữ đến làng,
Dưới trên hạch sách vơ càn khảo tra.
Người người hớt hãi mà run sợ,
Đến chó gà cũng chẳng được yên.
Những câu thơ như những nhát dao cứa vào lòng người đọc. Cảnh sống cơ cực, cái chết thê thảm của người dân Vĩnh Châu dưới ách đô hộ của phong kiến khiến người ta không khỏi xót xa, phẫn nộ.
Kết thúc bài thơ là lời nhận định sâu sắc của Liễu Tông Nguyên:
“Chính sự hà khắc độc hơn hổ hùm”.
Ta vốn vẫn nghĩ thường ngờ vực,
Nay lại nhân họ Tưởng mà tin.
Thế mới biết thuế sưu là độc,
So ra kia rắn nọ chẳng bằng ?
Bài thơ “Lời Người Bắt Rắn” là bản án dành cho chế độ phong kiến th腐 bại, tàn ác. Qua đó, Liễu Tông Nguyên đã thể hiện tấm lòng yêu thương dân chúng và tinh thần phê phán mạnh mẽ, bất khuất của một trí thức chân chính.
Kết Luận
Hành trình đến Vĩnh Châu của Nguyễn Du là hành trình trở về với những giá trị nhân văn cao đẹp. Qua hình tượng Liễu Tông Nguyên và tác phẩm “Lời Người Bắt Rắn”, Nguyễn Du đã gửi gắm tiếng lòng của mình trước những bất công, ngang trái trong xã hội. Đồng thời, ông cũng khẳng định vai trò của văn chương trong việc phản ánh hiện thực và đấu tranh cho lẽ phải, công bằng.