“Bắc hành tạp lục” là tập thơ chữ Hán ra đời trong chuyến đi sứ nhà Thanh của Nguyễn Du vào năm 1813-1814. Đây là tác phẩm đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam khắc họa một cách chân thực, sinh động và đa chiều về thực trạng xã hội Trung Hoa đương thời, góp phần hé lộ những suy tư sâu sắc của Nguyễn Du về một “mô hình lý tưởng” đang dần đi đến hồi kết.
Nội dung
Vỡ Mộng “Thiên Đường” Phong Kiến
Từ ngàn đời, nhà nước phong kiến Trung Hoa và văn hóa Trung Hoa luôn được xem là hình mẫu lý tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Văn chương Việt Nam thời trung đại tràn ngập chất liệu và hình thức của văn chương Trung Hoa. Tuy nhiên, Nguyễn Du, với Bắc hành tạp lục, đã phá vỡ lăng kính màu hồng đó để phơi bày một góc nhìn mới về Trung Hoa thời mạt kỳ.
Hình ảnh minh hoạ cho bài thơ "Bắc hành tạp lục" của Nguyễn Du
Khác với những ngợi ca thường thấy trong thơ văn sứ trình trước đây, Bắc hành tạp lục mở ra trước mắt người đọc một Trung Hoa với đầy rẫy những mảng màu u tối. Đó là những cung đường gập ghềnh trắc trở, là cảnh lũ lụt, mất mùa, đói khát, là những con người nhỏ bé bị lãng quên trong xã hội loạn lạc.
Trong Từ Châu dạ, Nguyễn Du khắc họa khung cảnh tiêu điều, tang thương của một đêm ở Từ Châu:
Hành lộ tị can qua
Nghiêm hàn độ dạ hà
Nguyệt lai nam quốc đại
Sơn nhập bắc Từ đa
Thành ngoại liệt binh giáp
Thành trung văn huyền ca
Khô dương tam bách thụ
Thụ thụ hữu đề nha
(Dịch nghĩa):
Đi đường phải tránh vùng giặc giã
Giữa đêm đông giá lạnh, qua sông
Phía nước Nam, trăng lớn
Bắc Từ Châu, núi nhiều
Ngoài thành đầy binh giáp
Trong thành nghe đàn ca
Ba trăm cây dương khô héo
Trên các cây, tiếng quạ kêu
Bài thơ Tổ Sơn đạo trung lại phảng phất nỗi buồn man mác, cô đơn của kẻ tha hương:
Khứ nhật Lưỡng Hà tằng tập chiến
Hu đồ thiên lí chính tư quy
Bà bà bạch phát hồng trần lộ
Nhật mộ đăng cao bi mạc bi
(Dịch nghĩa):
Hôm trước, Lưỡng Hà chiến tranh liên miên
Đường đi vòng dài nghìn dặm, làm nhớ quê
Tóc bạc phơ trên đường bụi đỏ
Trời tối lên cao, không gì buồn thế
Nguyễn Du không né tránh mà trực diện phơi bày những góc khuất của xã hội phong kiến Trung Hoa, nơi người dân chịu cảnh đói rét, loạn lạc, nơi những con người tài hoa, trung nghĩa bị vùi dập. Sự thật phũ phàng đó đã khiến cho hình ảnh “thiên đường” Trung Hoa trong tâm trí Nguyễn Du sụp đổ.
Tiếng Nói Phản Kháng Và Giải Thiêng Chế Độ Phong Kiến
Bắc hành tạp lục không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực trạng xã hội mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng “giải thiêng” của Nguyễn Du đối với chế độ phong kiến.
Bài thơ Phản Chiêu hồn là một minh chứng rõ nét. Nguyễn Du đã mượn hình tượng Khuất Nguyên và bài từ Chiêu hồn của Tống Ngọc để bày tỏ thái độ phản kháng của mình. Ông cho rằng hồn phách của những người trung nghĩa như Khuất Nguyên không nên trở về cõi trần gian đầy rẫy bất công, xấu xa:
Hồn hề! Hồn hề! hồn bất qui?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi ?
…
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà?
(Dịch nghĩa):
Hồn ơi! hồn ơi! sao chẳng về?
Đông tây nam bắc không chốn nương tựa
Lên trời xuống đất đều không được
Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì ?
…
Đời sau đều là Thượng Quan
Khắp mặt đất đều là sông Mịch La
Cá rồng không ăn, sói hùm cũng nuốt
Hồn ơi! hồn ơi! hồn làm sao đây?
Lời thơ thống thiết, đầy ai oán như một lời khẳng định: chế độ phong kiến đã mục ruỗng đến tận cùng, không còn là bến đỗ cho những giá trị cao đẹp.
Có thể thấy, bằng những trải nghiệm thực tế, bằng những suy tư trăn trở trước thời cuộc, Nguyễn Du đã có cái nhìn tỉnh táo về “mô hình lý tưởng” Trung Hoa. Bắc hành tạp lục không đơn thuần là tập thơ ghi chép về một chuyến đi sứ mà còn là bản tuyên ngôn “giải ảo”, “giải thiêng” chế độ phong kiến đầy táo bạo của một tâm hồn nhạy bén.
Kết Luận
Bắc hành tạp lục với những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc đã khẳng định tài năng và tầm nhìn vượt thời đại của Nguyễn Du. Tác phẩm là tiếng lòng của một nhà thơ yêu nước, thương dân, luôn trăn trở trước vận mệnh của đất nước và số phận con người. Đồng thời, Bắc hành tạp lục cũng là lời cảnh tỉnh sâu sắc cho những ai vẫn còn mộng mị về một “thiên đường” phong kiến đã đi đến hồi kết.
Tài liệu tham khảo:
-
Nguyễn Du. (1978). Thơ chữ Hán. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
-
Viện Văn học. (1981). Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến trung Quốc xâm lược. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.