Đầu thế kỷ 20, hai câu thơ “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử. Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Người đời xưa nay ai chẳng chết, Lưu lại lòng son với sử xanh) từ bài thơ “Qua biển Linh Đinh” của Văn Thiên Tường đã trở thành lời tự hứa của những người con Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Câu thơ ấy như ngọn đuốc soi sáng lý tưởng cao đẹp, khẳng định ý chí kiên cường bất khuất của lớp lớp thế hệ người Việt. Hình tượng người anh hùng dân tộc Văn Thiên Tường và áng văn chương bất hủ “Chính Khí Ca” đã trở thành biểu tượng bất diệt về lòng yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường của bậc anh hùng hào kiệt, in đậm dấu ấn trong tâm thức của người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Nội dung
Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, cũng là một trong những người con đất Việt deeply moved by khí phách và tinh thần của Văn Thiên Tường. Trong hành trình Bắc sứ, vượt sông Hoài, Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ “Qua sông Hoài nhớ Văn Thừa tướng” như một nén tâm nhang tưởng nhớ người anh hùng dân tộc Trung Hoa, đồng thời thể hiện nỗi niềm hoài cổ, lòng khát khao hòa bình và sự thống nhất non sông.
Văn Thiên Tường – Tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa và khí tiết
Văn Thiên Tường (1236-1282), hiệu Văn Sơn, là vị quan thanh liêm, nhà thơ yêu nước nổi tiếng thời Nam Tống. Ông không chỉ là một nhà chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ lớn với tài năng văn chương kiệt xuất. Tập thơ “Văn Sơn” của ông là tập hợp những sáng tác thấm đẫm nỗi niềm uất hận trước cảnh nước mất nhà tan và tinh thần bất khuất kiên cường trước quân xâm lược.
Khi quân Nguyên Mông tràn vào xâm lược, Văn Thiên Tường đã dâng sớ xin vua cho mình được ra trận đánh đuổi giặc thù. Dù bị giam cầm, tra tấn dã man, ông vẫn một lòng kiên trung với đất nước, nói những lời th thẳng chính trực và khẳng khái cự tuyệt mọi lời dụ dỗ, mua chuộc của quân giặc.
“Chính Khí Ca” – Tiếng ca hào hùng về khí phách con người
Trong những năm tháng bị giam cầm, Văn Thiên Tường đã sáng tác “Chính Khí Ca”, áng văn chương bất hủ ca ngợi chính khí, tinh thần bất khuất của bậc anh hùng hào kiệt. Bài ca là lời khẳng định về sự trường tồn của chính nghĩa, lòng trung với đất nước và tinh thần bất khuất của con người dù cho thời thế có đổi thay.
Bài ca đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho lớp lớp thế hệ người Việt, trong đó có Nguyễn Du. Hai câu thơ “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” trích từ bài “Qua biển Linh Đinh” của Văn Thiên Tường đã trở thành khẩu hiệu, lời tự động viên của những người con đất Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Dòng sông Hoài và nỗi niềm hoài cổ của Nguyễn Du
Sông Hoài là con sông lớn thứ ba Trung Quốc, bắt nguồn từ núi Đồng Bách, chảy qua nhiều tỉnh thành, trong đó có quê hương của Văn Thiên Tường. Dòng sông không chỉ là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Trung Hoa mà còn là chứng nhân cho bi kịch nước mất nhà tan của đất nước này.
Hình ảnh dòng sông Hoài trong bài thơ của Nguyễn Du mang nhiều tầng ý nghĩa. Đó không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ mà còn là dòng chảy lịch sử đã chứng kiến biết bao vua chúa, anh hùng hào kiệt. Vượt qua sông Hoài, Nguyễn Du như trở về với quá khứ, với những trang sử oai hùng của dân tộc Trung Hoa và cũng là nỗi niềm trăn trở về vận mệnh đất nước, về lòng trung nghĩa của người anh hùng.
“Qua sông Hoài nhớ Văn Thừa tướng” – Nỗi lòng của người đi sứ
Bài thơ “Qua sông Hoài nhớ Văn Thừa Tướng” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, tuân thủ luật niêm, vần, đối nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, bài thơ không bị gò bó vào khuôn khổ mà vẫn toát lên chất thơ mềm mại, uyển chuyển và đầy cảm xúc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du khắc họa bức tranh thiên nhiên sông núi hùng vĩ:
Núi sông phong cảnh vẫn y nguyên,
Lòng trung Thừa tướng mãi lưu truyền.
Câu thơ đối “phong cảnh” với “lòng trung”, “núi sông” với “Thừa tướng”, gợi sự trường tồn của thiên nhiên và lòng trung nghĩa của người anh hùng. Dù thời gian có trôi qua, vạn vật có thay đổi nhưng núi sông vẫn thế, và lòng trung nghĩa của Văn Thiên Tường vẫn còn mãi với thời gian.
Hai câu thực gợi nỗi niềm hoài cổ và nỗi lòng người xa quê:
Vượt khỏi sông Hoài không đất cũ,
Bao giờ Giang Tả lại đoàn viên.
Sông Hoài từng là ranh giới giữa đất Tống và đất Kim. Vượt qua sông Hoài cũng có nghĩa là Nguyễn Du đang đi vào vùng đất của triều đại phía Bắc. Câu hỏi tu từ “Bao giờ” gợi nỗi khát khao thống nhất, đoàn viên đất nước da diết của tác giả.
Hai câu luận thể hiện sự thán phục của Nguyễn Du đối với Văn Thiên Tường:
Bi thương lòng thốt thơ vàng đá,
Hồn oán mai về hóa đỗ quyên.
“Thơ vàng đá” là hình ảnh ẩn dụ gợi sự bất hủ của “Chính Khí Ca”. Câu thơ còn gợi nỗi oan hận ngàn thu của người anh hùng chưa thể trả được nợ nước. Hình ảnh “đỗ quyên” xuất hiện ở cuối bài thơ vừa gợi nỗi niềm thương xót cho người xưa vừa thể hiện lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Du.
Hai câu kết khép lại bài thơ bằng hình ảnh “chiều tà” và “thuyền qua lại”:
Phong tục Bắc Nam giờ chẳng khác,
Chiều tà qua lại biết bao thuyền.
Hình ảnh “chiều tà” vừa gợi không gian rộng lớn, bao la vừa thể hiện nỗi buồn man mác, lưu lạc của người xa quê. Hình ảnh “thuyền qua lại” gợi nỗi niềm trôi dạt, bấp bênh của kiếp người.
Góc nhìn văn hóa – lịch sử
Bài thơ “Qua sông Hoài nhớ Văn Thừa tướng” không chỉ là bài thơ thể hiện tài năng văn chương xuất chúng của Nguyễn Du mà còn thể hiện tầm nhìn văn hóa – lịch sử sâu rộng của ông. Bài thơ thể hiện sự thán phục của Nguyễn Du đối với người anh hùng dân tộc Trung Hoa – Văn Thiên Tường, đồng thời gửi gắm nỗi niềm hoài cổ, lòng yêu nước thầm kín và khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước của tác giả.