Đầu thế kỷ 20, những người con Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước đã khắc ghi trong tim hai câu thơ bất hủ: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử. Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Người đời xưa nay ai chẳng chết, Lưu lại lòng son chiếu sử xanh) trích trong bài thơ “Qua biển Linh Đinh”. Hai câu thơ ấy, tựa như một lời khẳng khái về lý tưởng cao đẹp, về tinh thần bất khuất của bậc anh hùng, được rút ra từ chính cuộc đời và thơ văn của Văn Thiên Tường – tác giả bài “Chính Khí Ca” lừng lẫy. Và chính khí ấy, đã vượt thời gian, không gian, để vang vọng đến tận Việt Nam, được các danh sĩ như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu… ngưỡng mộ, truyền bá.
Nội dung
6e032c653aef489293dc450fc76c4324.jpg
Văn Thiên Tường – Tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa
Văn Thiên Tường (1236-1282), hiệu là Văn Sơn, tên thật là Lý Thụy, là người Cát An, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông không chỉ là một nhà thơ tài hoa, mà còn là một vị anh hùng kiên trung của dân tộc Trung Hoa thời Nam Tống.
Ngay từ tuổi đôi mươi, Văn Thiên Tường đã đỗ Tiến sĩ và trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình, đỉnh cao là chức Hữu Thừa tướng (tương đương với chức vụ Thủ tướng ngày nay) kiêm khu mật sứ. Khi quân Nguyên Mông hùng mạnh tràn đến tấn công kinh thành Lâm An (nay là Hàng Châu), Văn Thiên Tường được triều đình giao phó trọng trách đi sứ giảng hòa. Thế nhưng, với khí phách của một bậc trung thần, ông đã khẳng khái cự tuyệt mọi lời dụ dỗ, mua chuộc của quân giặc, thà chết chứ không chịu khuất phục. Sau ba năm bị giam cầm và tra tấn dã man, Văn Thiên Tường đã anh dũng hy sinh khi mới 47 tuổi.
Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhưng Văn Thiên Tường đã để lại cho đời sau những tác phẩm văn chương bất hủ như “Văn Sơn tập”, “Chỉ Nam lục”, “Chỉ Nam hậu lục”, “Ngâm khiếu tập”… Tất cả được tập hợp trong “Văn Sơn tiên sinh toàn tập” gồm 20 cuốn – một kho tàng văn học quý giá, phản ánh lòng yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường của một bậc anh hùng.
Dòng sông Hoài và nỗi niềm hoài cổ
Sông Hoài – con sông lớn thứ ba Trung Quốc, sau sông Dương Tử và sông Hoàng Hà, không chỉ là một dòng sông thơ mộng mà còn là chứng nhân lịch sử cho những biến động thăng trầm của đất nước Trung Hoa. Dòng sông này cũng là nơi đã khơi gợi nên những tâm tư sâu lắng trong lòng thi hào Nguyễn Du khi ông nhớ về bài thơ “Qua sông Hoài” của Văn Thiên Tường:
Tòng kim biệt khứ Giang Nam lộ, Hóa tác đề quyên đai huyết quy.
(Từ nay vĩnh biệt con đường quê hương Giang Nam, hóa thành con chim đỗ quyên kêu khàn cổ đến ra máu.)
Vượt qua sông Hoài cũng đồng nghĩa với việc rời xa cố quốc, lòng đau như cắt, như chim đỗ quyên kêu đến khàn cả giọng, đến rỉ máu. Nỗi đau ấy, dường như đã cộng hưởng với tâm trạng của Nguyễn Du khi phải sống xa quê hương. Ông đã mượn hình ảnh sông Hoài, mượn ý thơ của Văn Thiên Tường để gửi gắm nỗi niềm của mình:
QUA SÔNG HOÀI NHỚ VĂN THỪA TƯỚNG
Núi sông phong cảnh vẫn còn nguyên,
Lòng trung Thừa tướng mãi lưu truyền.
Vượt khỏi sông Hoài không đất cũ,
Bao giờ Giang Tả lại đoàn viên?
Bi thương lòng thốt thơ vàng đá,
Hồn oán mai về hóa đỗ quyên.
Phong tục Bắc Nam giờ chẳng khác,
Chiều tà qua lại biết bao thuyền.
(Nhất Uyên dịch thơ)
Chính Khí Ca – Khúc ca bi tráng về lòng yêu nước
Trong số những sáng tác của Văn Thiên Tường, “Chính Khí Ca” được xem là một kiệt tác văn chương, một bản hùng ca bất hủ về lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của bậc trượng phu. Bài thơ được viết khi ông bị giam cầm trong ngục tù của nhà Nguyên, thể hiện khí phách hiên ngang, lòng trung nghĩa sắt son của một bậc trung thần.
Mở đầu bài thơ, Văn Thiên Tường đã khẳng định về sự tồn tại bất diệt của “chính khí”:
Thiên địa hữu chính khí,
Tạp nhiên phú lưu hình.
Hà tắc vi hà nhạc,
Thượng tắc vi nhật tinh.
Ư nhân viết hạo nhiên,
Bái hồ tắc sương minh.
(Trong trời đất có chính khí,
Tỏa sáng cho muôn loài.
Cho sông núi dưới đất,
Cho trăng sao trên trời.
Bao trùm cả vũ trụ,
Khí hạo nhiên con người.)
“Chính khí” ấy hiện hữu khắp nơi, từ sông núi, trăng sao, đến khí phách của con người. Nó là nguồn năng lượng vô tận, là lý tưởng cao đẹp, là tinh thần bất khuất, là lòng trung nghĩa sắt son.
Tiếp đó, tác giả đã liệt kê những tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa trong lịch sử như: Thôi Tử, Triệu Thuẩn, Trương Lương, Tô Vũ, Nghiêm Nhan, Kê Thiệu, Trương Tuần, Nhan Thường Sơn, Quảng Minh, Khổng Minh, Tổ Địch, Đoàn Tú Thực:
Tại Tề, Thái Sử giản,
Tại Tấn, Đổng Hồ bút,
Tại Tần , Trương Lương chùy,
Tại Hán, Tô Vũ tiết.
Vi Nghiêm tướng quân đầu,
Vi Kê Thị trung huyết,
Vi Trương Thư Dương xỉ,
Vi Nhan Thường Sơn thiệt.
Hoặc vi Liêu Đông mạo,
Thanh tháo lệ băng tuyết,
Hoặc vi xuất sư biểu,
Quỷ thần khấp tráng liệt.
(Ở Tề sách Thái Sử,
Ở Tấn bút Đổng Hồ,
Ở Tần chùy Trương Lương,
Ở Hán cờ Tô Vũ .
Đầu Nghiêm tướng thách giặc,
Máu Kê Thị đỏ áo vua,
Răng Trương Thư Dương chửi địch,
Lưỡi Nhan Thường Sơn mắng thù,
Hoặc là mũ Liêu Đông,
Trắng phau vẽ băng tuyết,
Hoặc là biểu Xuất Quân,
Quỷ thần sầu lẫm liệt.)
Dù trong hoàn cảnh nào, họ vẫn giữ vững chính nghĩa, trung thành với lý tưởng, với dân tộc. Đó là những tấm gương sáng ngời cho muôn đời sau soi chung.
Và trong hoàn cảnh ngục tù tăm tối, Văn Thiên Tường vẫn giữ vững khí phách hiên ngang:
Ta dư cấu dương cứu,
Lệ dã thực bất lực,
Sở tù anh kỳ quan,
Truyền xa tống cùng bắc.
Đỉnh hoạch cam như di,
Cầu chi bất khả đắc,
(Xót ta gặp vận mạt,
Tướng sĩ thật nhát hèn,
Dãi mũ buộc tù tội .
Xe tù lên bắc phương,
Ninh nấu đành cam phận,
Ta còn mong được gì!)
Ông xem thường cái chết, coi thường mọi cám dỗ của kẻ thù. Dù cho có bị “ninh nấu trong vạc dầu sôi”, ông vẫn kiên trung, bất khuất.
“Chính Khí Ca” đã trở thành tuyên ngôn về lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của dân tộc Trung Hoa. Bài thơ cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Hành trình tìm về cội nguồn và nỗi đau mất nước
Không chỉ dừng lại ở việc ngưỡng mộ Văn Thiên Tường, Nguyễn Du còn trực tiếp đến thăm quê hương của ông. Trong bài thơ “Dao vọng Hải Càn từ”, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh đền thờ Dương Thái hậu – vợ vua Tống Độ Tông:
Mang mang hải thủy tiếp thiên khu,
Ẩn ước cô từ xuất tiểu chu.
Cổ mộc hàn liên phù chữ mộ,
Tình yên thanh dẫn hải môn thu.
(Mênh mông mặt bể nối chân trời,
Thấp thoáng bãi vàng đền lẻ loi.
Chiều lạnh cây cao chim tối đậu,
Mác man cửa biển tỏa sương trôi.)
Hình ảnh ngôi đền lẻ loi giữa bãi cát mênh mông khiến cho lòng người thêm phần bâng khuâng, xót xa. Đó chính là nỗi đau mất nước, là nỗi niềm của những con người phải sống xa quê hương.
Và cũng trong bài thơ này, Nguyễn Du đã dùng hình ảnh “Minh Phi xuất tái” (Minh Phi ra cửa ải) để liên hệ đến hoàn cảnh của chính mình:
Tiểu nhỉ Minh Phi trường xuất tái,
Tỳ bà bôi tửu khuyến Thiền Vu.
(Cười ả Minh Phi ra cửa ải,
Tỳ bà chuốc rượu Thiền Vu vui.)
Minh Phi, hay Vương Chiêu Quân, là một mỹ nhân nổi tiếng thời Hán Nguyên Đế. Để làm vui lòng Thiền Vu, bà đã tình nguyện sang Hung Nô làm vợ lẻ. Hình ảnh đó khiến cho người đọc liên tưởng đến hoàn cảnh của Nguyễn Du khi phải làm quan dưới triều Nguyễn.
Qua hình ảnh Văn Thiên Tường và Dương Thái hậu, Nguyễn Du muốn gửi gắm thông điệp về lòng yêu nước, tinh thần bất khuất. Đó là những giá trị vĩnh cửu, vượt thời gian, không gian, vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Kết luận
Hình tượng Văn Thiên Tường và nỗi niềm hoài cổ trong thơ Nguyễn Du không chỉ là sự ngưỡng mộ đối với một bậc anh hùng, một tấm gương trung nghĩa sáng ngời, mà còn là sự thông cảm sâu sắc đối với hoàn cảnh đất nước, với nỗi đau chia cắt, li tan. Qua đó, Nguyễn Du cũng gửi gắm khát vọng về một tinh thần đoàn kết, độc lập dân tộc. Thông điệp đó vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại hôm nay.