Trong hành trình đi sứ sang Trung Quốc năm 1813, Nguyễn Du đã có dịp viếng mộ danh thần Âu Dương Tu – một trong “Đường Tống bát đại gia” lừng lẫy. Trước nấm mồ hoang lạnh của bậc tiền nhân, thi hào đã xúc động cho ra đời bài thơ “Âu Dương Văn Trung công mộ”, thể hiện sự cảm phục tài năng, đức độ của Âu Dương Tu, đồng thời gửi gắm nỗi niềm trăn trở trước thăng trầm của lịch sử và số phận của những người trí thức tâm huyết với đất nước.
Nội dung
Âu Dương Tu – Tấm Gương Sáng Về Tài Năng Và Đức Độ
Âu Dương Tu (1007-1072) tự Vĩnh Thúc, hiệu Lục Nhất Cư Sĩ, quê ở Lư Lăng, Giang Tây, là một trong những danh thần kiệt xuất của lịch sử Trung Quốc. Ông không chỉ là nhà văn hóa lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học uyên bác mà còn là một vị quan thanh liêm, chính trực, hết lòng vì dân, vì nước.
Âu Dương Tu sớm nổi danh là thần đồng, năm 24 tuổi đã đỗ đầu Tiến sĩ, trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Bắc Tống. Là người có khí phách, luôn hành động theo lẽ phải, không màng danh lợi, ông nhiều lần bị giáng chức vì dám đứng lên bảo vệ chính nghĩa, phê phán những việc làm sai trái của triều đình.
Ảnh: Chân dung Âu Dương Tu
Một trong những câu chuyện minh chứng cho khí phách của Âu Dương Tu là việc ông dâng sớ bênh vực nhà cải cách Phạm Trọng Yêm (989-1052) – người bị phe cánh gian thần hãm hại. Trong bức thư gửi Gián quan Cao Nhược Nột – kẻ hùa theo vu cáo hãm hại Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu đã viết:
“Trước đây tôi nghe người ta nói ông là một người quân tử, chính trực có học vấn, nhưng tôi hoài nghi. Cái gọi là chính trực đó là không thể co mình lại, có học vấn đó là có thể phân biệt được thị phi… Phạm Trọng Yêm cương chính hiếu học, bác cổ thông kim, trong triều ngoài nội ai ai cũng đều công nhận… Ông thì sợ Tể tướng, ham tiếc chức vị bản thân, vì hám lợi mà không dám nói những lời công chính… Tôi xem ra ông là người không biết ở nhân gian có những việc đáng hổ thẹn.”
Chính vì dám nói lên chính nghĩa, bất khuất trước cường quyền, Âu Dương Tu bị giáng chức xuống làm Huyện lệnh Di Lăng, mãi đến khi Phạm Trọng Yêm được minh oan, ông mới được trở về triều.
Không chỉ là một vị quan thanh liêm, chính trực, Âu Dương Tu còn là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn cho văn học Trung Quốc. Ông là người khởi xướng phong trào thơ văn “Minh Đạo” và “Trí Dụng”, chủ trương văn chương phải phản ánh hiện thực, phê phán những tư tưởng ủy mị, sáo rỗng. Âu Dương Tu được biết đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng như: “Túy Ông đình ký”, “Thu thanh phú”, “Lục Nhất thi thoại”, “Tân Đường thư”, “Tân Ngũ Đại sử”… được người đời đánh giá rất cao.
Bài Thơ “Âu Dương Văn Trung Công Mộ” – Tiếng Lòng Của Nguyễn Du Trước Mộ Danh Thần
Bài thơ “Âu Dương Văn Trung công mộ” được Nguyễn Du sáng tác vào tháng 8 năm Quý Dậu (1813), khi ông trên đường đi sứ sang Trung Quốc, ghé thăm lăng mộ của Âu Dương Tu ở tỉnh Hà Nam. Bài thơ dịch của Nhất Uyên như sau:
- Âu Dương Văn Trung công mộ
Năm thước mộ bia dựng cạnh đường,
Ghi tên Triều Tống, mộ Âu Dương.
Suốt đời ngay thẳng không ân hận,
Chốn suối vàng thu nức mãi hương.
Một nấm cỏ thu nơi chuột cáo,
Tám văn hào lớn tiếng văn chương.
Tùng cao, cỏ chỉ nơi nào nhỉ ?
Mục đồng, tiều hát dưới tà dương.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngôi mộ đơn sơ, nằm lặng lẽ bên đường:
Năm thước mộ bia dựng cạnh đường,
Ghi tên Triều Tống, mộ Âu Dương.
Chỉ bằng hai câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã khắc họa thành công khung cảnh hoang vắng, tiêu điều nơi lăng mộ của một bậc danh thần. Hình ảnh “năm thước mộ bia” nhỏ bé, lặng lẽ đứng đó như một minh chứng cho sự vô thường của cuộc đời. Dù là bậc đế vương hay những danh nhân kiệt xuất thì khi chết cũng trở về với cát bụi.
Nếu hai câu thơ đầu là bút pháp tả thực, khắc họa khung cảnh nơi lăng mộ thì hai câu thơ tiếp theo lại là lời ngợi ca tài năng, đức độ của Âu Dương Tu:
Suốt đời ngay thẳng không ân hận,
Chốn suối vàng thu nức mãi hương.
Cuộc đời của Âu Dương Tu là một tấm gương sáng về sự thanh liêm, chính trực. Ông luôn sống ngay thẳng, hành động theo lẽ phải, không màng danh lợi, dù có bị giáng chức, lưu đày cũng không hề oán thán. Chính đức độ sáng ngời ấy đã khiến tên tuổi Âu Dương Tu “nức mãi” hơn nghìn năm sau.
Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong lời ngợi ca ấy là nỗi xót xa, ngậm ngùi của Nguyễn Du khi chứng kiến cảnh lăng mộ của bậc danh thần bị lãng quên:
Một nấm cỏ thu nơi chuột cáo,
Tám văn hào lớn tiếng văn chương.
Hai câu thơ đối lập giữa sự lưu danh thiên cổ với cảnh hoang tàn, lạnh lẽo nơi nấm mồ của Âu Dương Tu khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, xót xa. Hình ảnh “nấm cỏ” gợi sự bỏ hoang, quạnh hiu, “chuột cáo” là hình ảnh ẩn dụ cho sự phá hoại, lợi dụng của những kẻ tiểu nhân. Trong khi đó, “tám văn hào lớn” là cách nói chỉ “Đường Tống bát đại gia” – biểu tượng cho sự tài hoa, uyên bác của nền văn học Trung Hoa. Sự đối lập ấy khiến người đọc nhận ra sự đảo lộn, bất công của cuộc đời. Những kẻ tài năng, đức độ như Âu Dương Tu lại bị lãng quên, trong khi những kẻ tiểu nhân, ích kỷ vẫn nhởn nhơ.
Nỗi niềm trăn trở ấy càng được thể hiện rõ hơn qua hai câu thơ cuối:
Tùng cao, cỏ chỉ nơi nào nhỉ ?
Mục đồng, tiều hát dưới tà dương.
Hình ảnh “tùng”, “cỏ chỉ” là biểu tượng cho sự thanh cao, ngay thẳng của Âu Dương Tu. Câu hỏi “nơi nào nhỉ” cho thấy Nguyễn Du đang truy tìm những tấm gương sáng trong xã hội. Tiếc thay, đáp lại ông chỉ có “tiếng hát” vô tư của “mục đồng, tiều phu” dưới bóng hoàng hôn. Câu thơ vừa gợi sự lạc lõng của nhà thơ, vừa ẩn chứa nỗi lo lắng về sự mai một của những giá trị tinh thần.
Bài thơ “Âu Dương Văn Trung công mộ” không chỉ thể hiện sự cảm phục của Nguyễn Du đối với tài năng, đức độ của Âu Dương Tu mà còn gửi gắm nỗi niềm trăn trở về thăng trầm của lịch sử, về số phận của những người trí thức tâm huyết với đất nước. Đồng thời bài thơ cũng là lời nhắc nhở thế hệ mai sau cần biết trân trọng những giá trị truyền thống, tôn vinh những tấm gương sáng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.