Nhạc Dương Lâu – Hồ Động Đình qua Thi Ca Sứ Thần Việt Nam: Nguyễn Du, Đoàn Nguyễn Tuấn, Phan Huy Ích, Nguyễn Tông Khuê, Hồ Sĩ Đống, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Vị…

Hành trình đi sứ sang Trung Hoa không chỉ là trọng trách ngoại giao mà còn là cuộc giao lưu văn hóa đặc sắc. Trên dòng sông lịch sử, các sứ thần Việt Nam đã để lại dấu ấn tài hoa qua những áng thơ văn bất hủ, ghi lại cảm xúc trước thắng cảnh sơn thủy hữu tình. Một trong những điểm đến đầy thi vị ấy chính là Nhạc Dương Lâu, nơi vọng nguyệt hoài hương, giao hòa tâm hồn với thiên nhiên hùng vĩ của đất trời.

31bc0002ece72bce374d.jpg31bc0002ece72bce374d.jpg

Tọa lạc trên thành Tây Môn, thành phố Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, Nhạc Dương Lâu như một chứng nhân lịch sử, lặng lẽ ngắm nhìn dòng chảy thời gian và cuộc sống sôi động bên bờ Hồ Động Đình. Nơi đây từng là điểm dừng chân của vô số sứ thần Việt Nam trên hành trình đến kinh đô Trung Hoa.

Nhạc Dương Lâu – Dấu Ấn Văn Hóa Trên Bờ Hồ Động Đình

Nhắc đến Nhạc Dương Lâu, người ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng: “Động Đình thiên hạ thủy, Nhạc Dương thiên hạ lâu” (Hồ Động Đình là hồ đứng đầu thiên hạ, Lầu Nhạc Dương là lầu đứng đầu thiên hạ). Vẻ đẹp của lầu gắn liền với khung cảnh hùng vĩ, thơ mộng của Hồ Động Đình, nơi được xem là “thiên hạ đệ nhất hồ” – hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc.

Lầu Nhạc Dương không chỉ là một công trình kiến trúc đồ sộ mà còn là nơi lưu giữ những tinh hoa văn hóa. Trải qua nhiều lần trùng tu và xây dựng, từ thời Tam Quốc đến đời nhà Thanh, Nhạc Dương Lâu đã trở thành chứng nhân lịch sử, chứng kiến bao thăng trầm của thời cuộc.

Nhạc Dương Lâu Ký – Tuyệt Tác Xuyên Thấu Thời Gian

Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất gắn liền với Nhạc Dương Lâu chính là “Nhạc Dương Lâu Ký” của Phạm Trọng Yêm (989-1052), một vị quan thanh liêm, chính trực thời nhà Tống. Bài ký được viết vào mùa xuân năm Khánh Lịch thứ tư, khi Đằng Tử Kinh nhận chức Thái thú Ba Lăng và cho trùng tu lại Nhạc Dương Lâu.

Với lối văn tao nhã, giàu hình ảnh và cảm xúc, Phạm Trọng Yêm đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của Hồ Động Đình qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Không chỉ dừng lại ở miêu tả cảnh sắc, tác giả còn gửi gắm vào đó những suy tư sâu sắc về cuộc đời, về trách nhiệm của người quân tử đối với đất nước, với dân chúng. Câu nói bất hủ: “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” đã trở thành lý tưởng sống cao đẹp, thể hiện tinh thần nhập thế, vì nước, vì dân của tầng lớp trí thức thời đại.

Thi Ca Sứ Thần – Dấu Ấn Tài Hoa Trên Đất Khách

Từ thời nhà Đinh (975) đến thời nhà Nguyễn (1848), hành trình đi sứ sang Trung Hoa đã trở thành một phần không thể thiếu trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Trên con đường vạn dặm ấy, các sứ thần không chỉ hoàn thành trọng trách với đất nước mà còn để lại dấu ấn tài hoa qua những áng thơ văn bất hủ.

Nhạc Dương Lâu, với vẻ đẹp cổ kính và vị trí đắc địa, đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Mỗi áng thơ là một bức tranh phong cảnh tuyệt mỹ, là tâm hồn của người nghệ sĩ hòa quyện cùng non nước hữu tình.

Nguyễn Du – Nỗi Niềm Hoài Hương Trước Gió Tây

Nguyễn Du (1766-1820) được biết đến là một trong những đại thi hào của dân tộc, tác giả của “Truyện Kiều” bất hủ. Ít ai biết rằng, trước khi trở thành danh nhân văn hóa thế giới, Nguyễn Du từng có khoảng thời gian phiêu bạt giang hồ ở Trung Quốc (1787-1790) trong thời kỳ Tây Sơn. Chính trong chuyến đi này, ông đã có dịp ghé thăm Nhạc Dương Lâu và sáng tác bài thơ “Đăng Nhạc Dương Lâu” (Lên lầu Nhạc Dương)

Bài thơ mang đậm tâm trạng hoài hương, nỗi niềm của người con xa xứ trước cảnh vật hùng vĩ nhưng cũng đầy u tịch:

Dốc đứng lầu cao dựng,

Lên cao tráng lệ sao !

Mây bay ba nước Sở,

Nước thu chín sông vào.

Chuyện cũ say ba bận,

Quê xưa vắng làm sao.

Gió Tây cô đơn đứng,

Tiếng hồng buồn biết bao!

(Nhất Uyên dịch)

Hình ảnh “gió Tây” trong bài thơ được xem là ám chỉ nhà Tây Sơn, thời đại đầy biến động mà Nguyễn Du là một chứng nhân lịch sử. Nỗi niềm của ông cũng là nỗi niềm chung của những người con xa xứ, lưu lạc tha phương, luôn hướng về quê cha đất tổ.

Đoàn Nguyễn Tuấn – Khí Phách Đại Việt Trên Đất Khách

Năm 1790, sứ đoàn Tây Sơn do Phan Huy Ích làm Chánh sứ, Đoàn Nguyễn Tuấn làm Phó sứ đã có chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Đây được xem là một trong những sứ đoàn long trọng và hoành tráng nhất trong lịch sử bang giao hai nước.

Tại Nhạc Dương Lâu, Đoàn Nguyễn Tuấn đã để lại áng văn chương tuyệt tác: “Nhạc Dương Lâu Phú”. Với lối hành văn phóng khoáng, giàu hình ảnh và chất trữ tình, bài phú đã khắc họa nên bức tranh phong cảnh hùng vĩ, đầy sức sống của Hồ Động Đình:

Thừa hứng lên lầu, từ cao xa trông,

Bóng hồ ngàn dậm, trên dưới sáng rực.

Mây trời lững lơ, khói chiều lóng lánh.

Đó là lúc trời phô bày bóng sắc !

(Nhất Uyên dịch)

Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh vật, Đoàn Nguyễn Tuấn còn gửi gắm vào đó tâm hồn của người nghệ sĩ, sự giao cảm sâu sắc với thiên nhiên. Bài phú còn thể hiện khí phách của sứ thần Đại Việt, mang trọng trách quốc gia, vừa uyên bác, vừa khéo léo trong đối nhân xử thế.

Phan Huy Ích – Tâm Hồn Thanh Cao Trước Non Nước Hữu Tình

Cùng với Đoàn Nguyễn Tuấn, Phan Huy Ích (1750-1822), vị Chánh sứ tài năng của sứ đoàn Tây Sơn cũng để lại dấu ấn khó phai mờ tại Nhạc Dương Lâu. Bài thơ “Nhạc Dương Lâu Hiểu Vọng” (Lên lầu Nhạc Dương ngắm cảnh buổi sớm) là một minh chứng cho tài năng và tâm hồn của ông:

Lầu gác đầu thành trong nắng mai,

Nhìn xa hồ chiếu nước liền mây.

Tục truyền tiên Lã say ba bận,

Mừng thấy cụ Yêm ký một bài.

Ngọn núi sóng ôm như ốc nổi,

Cánh buồm thoáng hiện bướm hoa bay.

Gửi trong trời đất bao la đó,

Bờ chỉ bãi lan âu giỡn bay.

(Nhất Uyên dịch)

Bài thơ mang âm hưởng thanh tao, kết hợp hài hòa giữa tả cảnh và trữ tình. Hình ảnh lầu Nhạc Dương uy nghi, tráng lệ hiện lên trên nền trời xanh thẳm, hồ nước mênh mông, bao la tạo nên một bức tranh phong cảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

Những Áng Thơ Văn Khác – Nét Vẽ Đa Sắc Màu

Bên cạnh những tác phẩm nổi tiếng nêu trên, Nhạc Dương Lâu còn là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ thi nhân Việt Nam khác. Mỗi áng thơ văn là một nét vẽ đặc sắc, góp phần tạo nên bức tranh đa dạng và phong phú về Nhạc Dương Lâu trong lòng người đọc.

Nguyễn Tông Khuê (1693-1767) trong bài thơ “Sứ trình tân truyện” đã khắc họa hình ảnh Hồ Động Đình mênh mông, bát ngát:

Động Đình một nước một trời,

Rủ rê Phạm Lãi rong chơi bấy chày,

Mênh mang bờ cõi khôn hay,

Gió nong ngàn dậm trăng đầy ba thu.

Hồ Sĩ Đống (1739-1785) lại mang đến một sắc thái trầm buồn, thấm đượm nỗi niềm hoài cổ:

Hai độ hoàng hoa Chánh sứ thần,

Tuổi cao đức trọng bậc công khanh.

Bang giao những tưởng như ngà ngọc,

Tiên cốt nào hay gió bụi trần.

Ngô Thì Nhậm (1746-1803) và Ngô Thì Vị (1774-1821) cũng để lại những vần thơ đầy cảm xúc về Nhạc Dương Lâu, gợi lên vẻ đẹp cổ kính, huyền thoại của nơi đây.

Kết Luận

Nhạc Dương Lâu không chỉ là một địa danh nổi tiếng của Trung Quốc mà còn là một phần không thể thiếu trong hành trình văn hóa của dân tộc Việt Nam. Nơi đây đã chứng kiến tài năng, khí phách và tâm hồn của các thế hệ sứ thần Việt Nam qua những áng thơ văn bất hủ.

Hình ảnh lầu Nhạc Dương sừng sững giữa trời đất, dòng sông cuốn chảy mênh mông và nỗi niềm hoài hương của người xa xứ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Những tác phẩm văn học ấy không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn góp phần thắt chặt mối quan hệ hữu nghị, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?