Cảnh chùa Một CộtTrần Nhân Tông trong tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ
Nội dung
Văn hóa Việt Nam là một dòng chảy liên tục, kết tinh từ những tinh hoa văn hóa ngoại lai và bản sắc văn hóa dân tộc. Trong dòng chảy đó, Phật giáo du nhập từ rất sớm và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Đặc biệt, dưới triều đại Lý – Trần, Phật giáo phát triển rực rỡ và mang đậm dấu ấn bản sắc dân tộc Đại Việt.
Giao thoa văn hóa và sự hình thành Phật giáo Việt Nam
Phật giáo đến với Việt Nam qua hai con đường chính: đường biển từ Ấn Độ và đường bộ từ Trung Quốc. Sự giao thoa văn hóa từ ba nguồn tư tưởng Phật giáo chính đã tạo nên diện mạo riêng cho Phật giáo Việt Nam thời kỳ này:
- Phật giáo Đại thừa từ Nam Ấn: Du nhập vào khoảng thế kỷ I trước Công nguyên, mang theo hệ kinh văn Bát Nhã với tư tưởng “Vô trụ”, “Siêu việt hữu – vô”, chú trọng thiền định để đạt giác ngộ.
- Thiền tông Ấn Độ: Truyền bá vào thế kỷ VI bởi Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tiếp nối tư tưởng “Vô trụ”, “Siêu việt hữu – vô” của Phật giáo Đại thừa.
- Thiền tông Trung Quốc: Du nhập vào thế kỷ IX bởi Vô Ngôn Thông, mang theo pháp môn Đốn ngộ và tư tưởng “Phật tại tâm”.
Nét đặc sắc của Phật giáo thời Lý – Trần
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba dòng tư tưởng trên đã tạo nên những nét đặc sắc riêng cho Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần:
Tinh thần nhập thế, “cư trần lạc đạo”
Dưới thời Lý – Trần, nhiều thiền sư không chỉ là những bậc tu hành uyên thâm mà còn là những người con của dân tộc, hết lòng phụng sự đất nước. Họ tham gia vào việc giáo dục, đào tạo nhân tài, hiến kế sách giúp vua trị nước, thậm chí trực tiếp tham gia vào cuộc chiến chống giặc ngoại xâm như Vạn Hạnh, Pháp Thuận, Khuông Việt. Tinh thần nhập thế, “cư trần lạc đạo” của Phật giáo thời kỳ này thể hiện rõ nét qua hình ảnh những ngôi chùa thờ tự các vị anh hùng dân tộc.
Sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian
Khác với Thiền tông Ấn Độ và Trung Quốc, Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần còn kết hợp với các tín ngưỡng bản địa, tạo nên nét đặc sắc riêng. Yếu tố thần thoại, pháp thuật của Đạo giáo cũng được du nhập, thể hiện qua những câu chuyện về các thiền sư chữa bệnh, trừ tà, như Nguyễn Minh Không. Sự kết hợp này cho thấy khả năng dung nạp, uyển chuyển của Phật giáo Việt Nam trong quá trình hội nhập văn hóa.
Hai dòng thiền tiêu biểu: Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử
Thiền phái Thảo Đường
Dòng Thiền này ra đời trong bối cảnh đất nước độc lập, hưng thịnh dưới thời Lý. Do vua Lý Thánh Tông sáng lập, Thiền phái Thảo Đường chú trọng sự kết hợp giữa Nho – Phật, Thiền tông và Tịnh độ tông. Tư tưởng chủ đạo là thiền quán kết hợp với tụng niệm, niệm Phật, thể hiện qua việc xây dựng chùa Một Cột thờ Phật bà Quan Âm.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Dòng Thiền này ra đời dưới thời Trần, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Sáng lập bởi Trần Nhân Tông – vị vua được tôn vinh là Phật hoàng, Thiền phái Trúc Lâm mang đậm bản sắc dân tộc.
Trúc Lâm Yên Tử chủ trương “Phật tại tâm”, đề cao thiền định, kết hợp với niệm Phật, tuân thủ giới luật. Tư tưởng này được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của Trần Thái Tông như Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam tự; của Tuệ Trung Thượng sĩ như Thượng sĩ ngữ lục; và của Trần Nhân Tông như Cư trần lạc đạo phú.
Thiền phái Trúc Lâm không chỉ là một dòng thiền, mà còn mang tinh thần của một tôn giáo độc lập, với hệ thống tổ chức và kinh sách bài bản. Việc hình thành Thiền phái Trúc Lâm thể hiện mong muốn khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và thống nhất tư tưởng của nhà Trần.
Kết luận
Phật giáo thời Lý – Trần là một minh chứng cho khả năng tiếp biến văn hóa linh hoạt của dân tộc Việt Nam. Từ những giá trị nguyên thủy của Phật giáo, người Việt đã kết hợp với văn hóa, tín ngưỡng bản địa để tạo nên một Phật giáo đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tinh thần nhập thế, “cư trần lạc đạo”, lấy “tâm” làm gốc của Phật giáo thời Lý – Trần vẫn còn nguyên giá trị trong đời sống đương đại, là điểm tựa tinh thần, là động lực để con người sống tốt, sống đẹp, sống có ích cho xã hội.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, Paris; Nxb Lá Bối, Sài Gòn, 1972; Nxb KHXH, Hà Nội, 1994 tái bản.
- Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội, 1988.
- Nguyễn Duy Hinh, Ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần, trong sách: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần của nhiều tác giả, do Viện Sử học chủ biên, Nxb KHXH, H.1981.
- Trần Văn Giáp, Les Boudhisme en Annam des origines au XIII e siecle (Phật giáo ở An Nam từ thuở ban đầu đến thế kỷ XIII), 1932.
- Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, 1941.
- Tầm Vu, Tìm hiểu đặc điểm Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý Trần qua các tác phẩm văn học, Tạp chí Văn học số 2. 1972.
- Kiều Thu Hoạch, Tìm hiểu thơ văn các nhà sư thời Lý Trần, Tạp chí Văn học số 6, 1965.
- Hà Văn Tấn, Từ một cột kinh Phật năm 973 mới phát hiện ở Hoa Lư, Ninh Bình, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 70, tháng 7. 1965.
- Nguyễn Hữu Lợi, Chùa Một Cột với tinh thần Phật giáo Việt Nam thời Lý, Tạp chí Tư tưởng, Sài Gòn, số 1 – 1974.
- Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, Paris; Nxb Lá Bối, Sài Gòn, 1972.
- Nguyễn Huệ Chi, Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần, Tạp chí Văn học số 4 – 1977.
- Nguyễn Duy Hinh, Yên Tử – Vua Trần – Trúc Lâm, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 – 1977.
- Viện Sử học, nhiều tác giả, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Nxb KHXH, HN, 1981.
- Viện Văn học (biên soạn), Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977.
- Viện Văn học (biên soạn), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989.