Đầu thế kỷ 20, khi du lịch vẫn còn là một khái niệm mới mẻ ở Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Kinh Chi đã thực hiện một cuộc hành trình khám phá vùng đất Quảng Bình đầy nắng gió. Qua lăng kính của một trí thức thời kỳ giao thoa văn hóa, cuốn sách “Du lịch Quảng Bình” (1931) của ông hiện lên như một bức tranh sống động về hai địa danh nổi tiếng: Phong Nha – Kẻ Bàng và thành phố Đồng Hới. Hãy cùng chúng tôi ngược dòng thời gian, trở về quá khứ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguyên sơ và lắng nghe những câu chuyện lịch sử đầy lôi cuốn được kể lại qua những trang sách đã nhuốm màu thời gian.
Kỳ Vĩ Động Phong Nha
Nằm ẩn mình trong dãy Trường Sơn hùng vĩ, động Phong Nha, hay còn được gọi là động Cù Lạc, động Tiên Sư, đã sớm nổi tiếng là một kỳ quan thiên nhiên hiếm có. Nguyễn Kinh Chi cho biết, vào thời điểm đó, động Phong Nha đã được so sánh với những hang động đẹp nhất thế giới, thu hút đông đảo du khách Pháp đến tham quan. Tuy nhiên, người Việt Nam lúc bấy giờ lại chưa có điều kiện tiếp cận nhiều với du lịch, nên đa phần chỉ được nghe kể lại về vẻ đẹp của động.
Để đến được động Phong Nha, du khách từ thành phố Đồng Hới có thể di chuyển theo hai cách: đi bộ hoặc đi thuyền. Nếu đi bộ, du khách sẽ đi theo đường thiên lý đến huyện lỵ Bố Trạch, sau đó rẽ vào con đường tư ích số 65. Còn nếu đi thuyền, du khách có thể đi tàu hỏa đến ga Ngàn Sơn, sau đó thuê thuyền từ làng Phú Kinh, chèo khoảng 5 tiếng đồng hồ là đến nơi.
Cửa động Phong Nha trên sông Son. Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên/WikipediaCổng vào động Phong Nha hùng vĩ, nơi dòng sông Son hiền hòa dẫn lối vào thế giới thạch nhũ kỳ ảo.
Khách tham quan có thể lựa chọn hai cách khám phá động Phong Nha: xem qua hoặc khám phá chi tiết. Nếu chỉ muốn xem qua, du khách có thể thuê thuyền nhỏ, mang theo 7-8 bó đuốc, dành khoảng vài giờ để tham quan. Còn nếu muốn khám phá tường tận, du khách cần chuẩn bị đầy đủ thức ăn, nước uống, mền, chiếu, diêm, đèn (đèn đá và đèn điện), đuốc… để có thể ở lại hang từ 3-4 ngày, thậm chí là 15 ngày như một số nhà thám hiểm.
Từ bến thuyền vào đến cửa hang khoảng 1km. Nguyễn Kinh Chi miêu tả, cửa hang Phong Nha hiện lên với vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, vừa bí ẩn. Vách đá dựng đứng, cửa hang sâu hun hút, dòng nước chảy trong veo, tất cả tạo nên một khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa có chút gì đó rờn rợn, khiến không ít du khách chần chừ khi muốn tiến sâu vào bên trong.
Theo miêu tả của tác giả, động Phong Nha có thể chia làm ba đoạn chính:
Đoạn thứ nhất: Nằm ngay cửa hang, gồm ba phòng: phòng ngoài, phòng chính và một phòng nhỏ hẹp chỉ vừa một chiếc thuyền con đi qua. Phòng chính dài hơn 700m, là nơi bắt đầu tối dần, phải thắp đèn đuốc mới nhìn rõ. Trần hang cao 15-20m, uốn cong như hình vòm cuốn. Hai bên vách đá, thạch nhũ hình thành muôn hình vạn trạng, tạo nên một khung cảnh kỳ ảo.
Đoạn thứ hai: Nằm bên tay phải, cách cửa hang khoảng 600m. Để đến được đây, du khách phải bỏ thuyền, đi bộ qua một bãi cát. Đoạn này có một phòng được gọi là “phòng khắc chữ” (galerie des inscriptions) vì trên vách đá có khắc chữ Chăm cổ và vô số chữ ký của du khách đến tham quan. Đi sâu vào bên trong là một lỗ sâu khoảng 4m, phải dùng thang mới trèo xuống được. Qua khỏi lỗ sâu là hai phòng nhỏ, trong đó có một phòng có khắc chữ Chăm cổ trên vách đá.
Các kí tự cổ bí ẩn được cho là dấu tích của một thánh đường Chăm Pa từ thế kỷ IX đến đầu thế kỷ XI. Ảnh: Dân tríDấu tích chữ Chăm cổ trên vách đá động Phong Nha – minh chứng cho sự hiện diện của người Chăm trong lịch sử vùng đất này.
Đoạn thứ ba: Nằm bên tay trái, là đoạn hấp dẫn và kỳ vĩ nhất động Phong Nha. Khách tham quan cũng phải bỏ thuyền, đi bộ một đoạn dài hơn 800m. Đoạn này gồm 4 phòng (số I, II, III, IV) với hệ thống thạch nhũ lồi lõm, đường đi khuất khúc, hiểm trở. Theo Nguyễn Kinh Chi, du khách nên tham khảo các bản du ký của ba nhà thám hiểm Barton (người Anh, thám hiểm năm 1924), Antoine (giáo viên trường Quốc học Huế, thám hiểm năm 1928) và Bouffier (Phó Công sứ Quảng Bình, thám hiểm năm 1929) để có thể khám phá trọn vẹn vẻ đẹp của đoạn này. Các bản du ký này được lưu trữ tại phòng Du lịch Huế, Tòa sứ và hiệu Khuynh Diệp (Đồng Hới).
Để minh chứng cho vẻ đẹp “kỳ hiểm” của động Phong Nha, Nguyễn Kinh Chi đã trích dẫn lại lời kể của nhà thám hiểm Barton: “Trong động có vẻ đẹp thiên nhiên lộng lẫy, không bút nào tả ra được cho đúng. Tôi ở đó hơn 15 ngày mà đi xem chưa chán. Khách du lịch bước chân vào đấy hình như bước vào một cảnh thần tiên: này là những phòng chứa đầy thạch nhũ: cái trắng cái đỏ, cái vàng, cái xám đen, cái lại trong vắt như thuỷ tinh, cái lóng lánh như có hoàng chiếu đính trên mình, cái thời nổi vảy như có vô vạn mảnh nước đá con con bao bọc chung quanh; bên chân lại vũng sâu thăm thẳm, thỉnh thoảng lại có hòn thạch nhũ lờ mờ dưới 10 thước nước, trên đầu thì đá cuốn vành bán nguyệt cao chất ngất trăm thước trên khoảng không. Về phần mĩ thuật thì nào các bức chạm khắc tỉ mỉ vào tường đá, cùng là những hàng chữ kỉ niệm của giống Chiêm Thành để lại. Về phần khoa học thì thiếu gì điều nên nghiên cứu, như các giống tôm cua lạ, các loài cá không mắt ăn mò trong xó tối, bao giống thực vật suốt đời sinh hoạt trong chốn u ám tối tăm…”.
“Này là những phòng chứa đầy thạch nhũ: cái trắng cái đỏ, cái vàng, cái xám đen, cái lại trong vắt như thuỷ tinh, cái lóng lánh như có hoàng chiếu đính trên mình, cái thời nổi vảy như có vô vạn mảnh nước đá con con bao bọc chung quanh…”. Ảnh nhũ đá trong động Phong NhaThạch nhũ muôn hình vạn trạng trong động Phong Nha, tạo nên một thế giới lung linh, huyền ảo, khiến du khách như lạc vào cõi thần tiên.
Có lẽ chính vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, vừa thơ mộng của động Phong Nha đã tạo cảm hứng cho Thúc Giạ Thị sáng tác bài ca trù nổi tiếng, được khắc trên bản gỗ đặt ngay cửa động:
Kỳ kỳ quái quái, động tiên này ngắm mãi lại càng xinh
Đá vô tri ai khéo tạc nên hình, thêm vẻ lạ xanh xanh, vàng, trắng, đỏ
Hiệp từ thời xuân lai yến vũ
Kỷ trùng môn ngoại thính ngư ca
Có thanh sơn, có lục thuỷ, có cổ thụ, kì ba, cờ tiên tử, rượu tiên gia chừng cũng có.
Chén ngọc dịch, khuyên mời cho sẵn đó, khách đăng cao còn lắm độ trùng du.
Dặn lòng hai chữ “nam mô”.
Đồng Hới – Phố Biển Xưa
Rời khỏi Phong Nha – Kẻ Bàng hùng vĩ, chúng ta tìm về Đồng Hới – trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa của Quảng Bình. Theo miêu tả của Nguyễn Kinh Chi, Đồng Hới đầu thế kỷ 20 là một đô thị nhỏ, nằm bên bờ sông Kiến Giang, với khoảng 3.000 dân, bao gồm cả dân cư các làng lân cận. Tên gọi “Đồng Hới” được cho là bắt nguồn từ cách gọi “Động Hải” của người Pháp, do thành phố nằm trên đất làng Động Hải xưa.
Đồng Hới lúc bấy giờ được chia thành hai khu vực chính:
Khu vực thành trì: Nằm ở phía Tây Bắc, là trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Bình, nơi tập trung các cơ quan quan trọng như Tòa sứ, dinh thự các quan người Pháp và người Việt, trường học, trại lính khố xanh… Thành trì Đồng Hới, còn gọi là lũy Trấn Ninh, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn. Năm 1774, chúa Trịnh đổi tên thành đồn Động Hải. Đến năm 1812, vua Gia Long cho đắp thành bằng đất và đến năm 1824, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành hình vuông, chu vi hơn 465 trượng (khoảng 1860m), cao 1 trượng (khoảng 4m), bốn góc có rìa cạnh khế. Mặt tiền quay về hướng Tây, có cột cờ. Ba mặt còn lại có ba cửa: Nam môn, Bắc môn và Đông môn, đều có cầu gạch dẫn ra ngoài. Bao quanh thành là hào sâu.
Quảng Bình quan, biểu tượng của thành phố Đồng Hới, khoảng năm 1937-1938. Đây là phần còn lại của thành Đồng Hới được Vua Gia Long xây dựng bằng đất vào năm 1812, đóng vai trò trấn giữ con đường huyết mạch Bắc – Nam và đường thuỷ từ cửa biển Nhật Lệ trở vào. Ảnh: Flickr manhhaiQuảng Bình quan – chứng tích lịch sử oai hùng, minh chứng cho vị trí chiến lược quan trọng của Đồng Hới xưa.
Khu vực thương mại: Nằm ở phía Đông Nam, bao gồm mười lăm phố buôn bán của người Hoa và vài chục phố của người Việt, tập trung trên một số con đường chật hẹp. Hoạt động thương mại chính của Đồng Hới là buôn bán các mặt hàng tạp hóa nhỏ lẻ, trong đó nổi bật là nước mắm và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ gỗ, đặc biệt là hộp chạm.
Xe lửa ở ga Đồng Hới, Quảng Bình, khoảng năm 1920-1929. Nguồn: Flickr manhaiGa Đồng Hới đầu thế kỷ 20, minh chứng cho sự phát triển của hệ thống giao thông đường sắt thời bấy giờ.
Cách trung tâm Đồng Hới khoảng 1,5km là cửa biển Nhật Lệ, nơi được mệnh danh là “bãi biển của người Huế”. Vào mùa hè, người dân từ Huế và các tỉnh miền Trung thường đến đây tắm mát, tránh nóng. Nguyễn Kinh Chi cho biết, cửa biển Nhật Lệ lúc bấy giờ khá nhỏ và cạn, tàu lớn không vào được. Tuy nhiên, nơi đây vẫn là thương cảng nhộn nhịp, nơi thuyền bè từ Bắc chí Nam tấp nập ra vào buôn bán.
Theo sử sách, cửa biển Nhật Lệ từng là chứng nhân lịch sử của nhiều sự kiện quan trọng. Dưới thời Lý, cửa biển này có tên là Trú Nha. Năm 1376, vua Trần Duệ Tông trên đường đi đánh Chiêm Thành đã dừng chân ở đây một tháng để luyện tập binh sĩ. Năm 1468, vua Lê Thánh Tông cũng ghé lại đây và để lại bài thơ khắc trên đá. Vào thế kỷ 17-18, trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn, cửa biển Nhật Lệ là một vị trí chiến lược quan trọng, nơi chúa Nguyễn cho chăng dây sắt, đóng cọc lim ngăn thuyền bè của chúa Trịnh. Năm 1802, vua Gia Long đánh tan quân Tây Sơn cũng tại cửa biển này.
Thuyền đánh cá ở Đồng Hới, Quảng Bình, khoảng năm 1930-1933. Ảnh: Jean-Yves Claeys (1896 – 1979)Cửa biển Nhật Lệ – nơi ngư dân neo đậu thuyền bè sau những chuyến ra khơi, mang về nguồn hải sản dồi dào cho vùng đất Quảng Bình.
Nằm về phía Nam cửa biển Nhật Lệ là di tích lũy Nhật Lệ, còn gọi là lũy Động Hải, lũy Trấn Ninh, hay “lũy Thầy” (do ông Đào Duy Từ – vị quân sư của chúa Nguyễn – chỉ huy xây dựng). Lũy được xây dựng vào năm 1631, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi), nhằm mục đích ngăn chặn quân Trịnh từ Đàng Ngoài đánh vào. Lũy dài hơn 3.000 trượng (hơn 12km), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6m), kéo dài từ cửa biển Nhật Lệ đến chân núi Đâu Mâu. Mặt trong lũy được đắp bằng đất, mặt ngoài gia cố bằng cọc lim. Lũy có 5 cấp, đủ rộng cho voi, ngựa di chuyển. Cứ cách 1 trượng (4m) lại đặt một khẩu súng thần công, cách 3-5 trượng (12-20m) lại có một pháo đài chứa súng đại bác và đạn dược.
Lũy Nhật Lệ đã chứng kiến nhiều trận chiến khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc. Năm 1774, lũy bị quân Trịnh phá hủy, sau đó được quân Tây Sơn xây dựng lại. Năm 1801, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) cho tu sửa lại lũy. Đến năm 1824, vua Minh Mạng cho xây dựng thêm đoạn tường thành bằng đá từ sông Lệ Kỳ ra đến cửa biển và hai cửa: Quảng Bình quan (giữa thành Đồng Hới) và Võ Thắng quan (gần ga Lệ Kỳ). Năm 1842, vua Thiệu Trị cho tu bổ lại lũy và đổi tên thành Định Bắc Trường thành.
Tuy nhiên, theo dòng chảy lịch sử, những pháo đài, lũy thành kiên cố cũng dần trở nên vô dụng. Định Bắc Trường thành cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đến đầu thế kỷ 20, lũy chỉ còn là đống hoang tàn, rêu phong, cỏ dại mọc um tùm. Hình ảnh tàn tích của lũy Nhật Lệ gợi lên trong lòng người ta nỗi niềm tiếc nuối về một thời kỳ lịch sử oai hùng đã qua.
Hình ảnh lũy Nhật Lệ đổ nát cũng khơi gợi cảm xúc cho nhiều thi nhân. Nhà thơ Minh Viên khi đi qua Đồng Hới đã có bài thơ vịnh lũy:
Bể dâu thay đổi mấy triều vương
Lũy cũ xanh xanh một dải trường,
Rêu đá lờ mờ kinh Hổ Trướng,
Gió lau veo vót phú Long Cương.
Non sông trơ đó, Thầy đâu vắng?
Con cháu còn đây, giống vẫn cường.
Công đức, miệng người, bia tạc mới,
Nghìn thu mấy kẻ biết trông gương.
Bài viết của Nguyễn Kinh Chi không chỉ đơn thuần là cẩm nang du lịch, mà còn là nguồn tư liệu quý giá, giúp chúng ta hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, địa lý vùng đất Quảng Bình vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Qua những trang viết, ta như được sống lại một thời kỳ lịch sử sôi động, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của non sông đất nước và cảm nhận được tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm của tác giả.