Từ bao đời nay, sử thi luôn là tiếng lòng của cộng đồng, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa và lịch sử của một dân tộc. Đối với người Hà Nhì, “P’huỳ ca Na ca” chính là khúc ca bi tráng về cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, là minh chứng cho ý chí kiên cường và sức sống mãnh liệt của họ trước sóng gió lịch sử.
Mặc dù không đồ sộ như sử thi của nhiều quốc gia khác, “P’huỳ ca Na ca” với 932 câu, 28.903 từ lại cô đọng và súc tích, chứa đựng đầy đủ những giá trị tiêu biểu nhất của một tác phẩm sử thi. Câu chuyện được chia làm ba phần, tái hiện lại một cách chân thực và sống động bức tranh lịch sử hào hùng của người Hà Nhì.
Phần I: Nỗi Đau Mất Nước
Phần đầu tiên của sử thi mở ra với khung cảnh yên bình của người Hà Nhì ở Na Chô Chô Ứ, bên dòng sông Ha Sa. Nơi đây được bao bọc bởi núi non hiểm trở, cùng hệ thống phòng thủ kiên cố, vững chắc.
Thế nhưng, tai ương ập đến khi dịch bệnh hoành hành, người con gái xinh đẹp của bản bị mắc bệnh hiểm nghèo. Trong lúc nguy nan, người Hán đã dùng mưu mô, bày kế để chữa khỏi bệnh cho cô gái, đồng thời cài nàng làm nội gián, nhằm mục đích thôn tính đất đai của người Hà Nhì.
Phần II: Cuộc Chiến Không Khoan Nhượng
Phần thứ hai là cuộc đối đầu căng thẳng giữa anh con trai trưởng, đại diện cho những người Hà Nhì yêu chuộng hòa bình và muốn bảo vệ truyền thống với người con rể Hán gian xảo. Từng bước, người Hán xâm chiếm đất đai, hãm hại voi chúa canh giữ biên cương, cướp đi ống thần – bảo vật thiêng liêng của người Hà Nhì.
Cao trào của cuộc chiến được đẩy lên khi người Hán lấy cớ tấn công, chính thức thôn tính đất đai của người Hà Nhì. Những câu thơ đầy bi phẫn đã lột tả được sự tàn khốc của chiến tranh:
Đạn người Hán rơi dầy tựa sao sa
Máu người chết chảy thành dòng đỏ thẫm
Phần III: Cuộc Di Cư Vĩ Đại Và Hành Trình Tìm Lại Cội Nguồn
Phần cuối cùng là khúc ca bi tráng về cuộc di cư của người Hà Nhì. Họ phải bỏ lại quê hương, dắt díu nhau đi tìm vùng đất mới. Trên hành trình gian khổ đó, nhiều người đã ngã xuống, nhiều người bị bắt làm nô lệ, ly tán khắp nơi.
Sau bao gian nan, một bộ phận người Hà Nhì đã đến được đầu nguồn Khó Ma, vùng đất trù phú, “nơi có nhiều sản vật”, “uống rượu ngọt không cần phải trộn men, hạt cơm ăn cũng chẳng dùng chày giã”. Ngày nay, nơi đây thuộc địa phận xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của người Hà Nhì.
Vẻ Đẹp Hồn Nhiên Và Sức Mạnh Ngôn Từ Của Sử Thi
Không chỉ tái hiện lại lịch sử hào hùng của dân tộc, “P’huỳ ca Na ca” còn là bức tranh phong tục đặc sắc, thể hiện nét văn hóa độc đáo của người Hà Nhì. Qua ngôn ngữ thơ ca mộc mạc, những sinh hoạt thường ngày như dệt vải, chăn nuôi, trồng trọt, … hiện lên thật gần gũi và bình dị.
Sử thi “P’huỳ ca Na ca” sử dụng lối tự sự kết hợp với ngôn ngữ giàu hình ảnh, so sánh và ẩn dụ, tạo nên sức lôi cuốn đặc biệt cho người nghe. Khi miêu tả vẻ đẹp của người con gái Hà Nhì, sử thi đã so sánh “Chân thon dài, đùi trắng như nõn chuối”, “Cổ ba ngấn như nhộng tằm trong kén”,…
Bên cạnh đó, sử thi còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ độc đáo như phóng đại, tả thực, giúp người nghe hình dung rõ nét hơn về những sự kiện lịch sử và đời sống tinh thần của người Hà Nhì xưa.
“P’huỳ ca Na ca” là minh chứng hùng hồn cho khả năng sáng tạo nghệ thuật của người Hà Nhì. Sử thi không chỉ là câu chuyện lịch sử, mà còn là bản tuyên ngôn về ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất và niềm tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc.
Tài liệu tham khảo:
- Phan Đăng Nhật. Sử thi Tây Nguyên lý luận và thực tiễn; in trong sách Văn hoá các dân tộc thiểu số những giá trị đặc sắc; Nxb Khoa học Xã hội; H.2009.