Trong hành trình gian nan vượt ngàn dặm đi sứ năm 1813, Nguyễn Du đã có dịp đặt chân đến vùng đất Vĩnh Châu – nơi ghi dấu ấn của bậc văn hào Liễu Tông Nguyên. Cảm xúc bồi hồi trước khung cảnh xưa, cùng sự đồng cảm sâu sắc với tâm hồn bị ruồng bỏ của Liễu Tông Nguyên đã thôi thúc Nguyễn Du sáng tác bài thơ “Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu”. Bài thơ không chỉ là bức thông điệp vượt thời gian kết nối hai tâm hồn tri kỷ, mà còn là lời tự vấn, thán về thân phận và tài năng của chính Nguyễn Du.
Theo dòng lịch sử, ngày 20 tháng 7 âm lịch năm Quý Dậu (1813), rời Toàn Châu xuôi theo dòng sông Tiêu Tương, Nguyễn Du đến với Vĩnh Châu, nơi khoảng 1000 năm trước, bậc đại nho Liễu Tông Nguyên từng bị đày ải. Nhớ đến người xưa, Nguyễn Du không khỏi bồi hồi. Ông nhớ về cuộc đời đầy bi kịch của Liễu Tông Nguyên – một bậc kỳ tài, một tâm hồn trong sạch, luôn đau đáu trước vận mệnh quốc gia, nhưng lại bị chèn ép và gạt bỏ.
Liễu Tông Nguyên (773-819), tự Tử Hậu, hiệu Liễu Hà Đông, quê ở huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là một trong “Đường Tống bát đại gia” – tám nhà văn hóa lớn của Trung Quốc từ thời Đường đến thời Tống. Sự nghiệp văn chương của Liễu Tông Nguyên gắn liền với những tác phẩm lên án sự mục ruỗng của triều đình, sự tha hóa của quan lại và nỗi thống khổ của nhân dân. Chính vì những sáng tác dám nói lên sự thật phũ phàng ấy mà ông bị giáng chức, bị đày ải đến những vùng đất xa xôi hẻo lánh.
Tại Vĩnh Châu, chứng kiến cảnh dân chúng lầm than vì sưu cao thuế nặng, Liễu Tông Nguyên đã viết nên “Bổ Xà Giả Thuyết” (Lời Người Bắt Rắn) – một tác phẩm đầy tính nhân văn, tố cáo sự tàn bạo của chính quyền phong kiến, sự bất công trong xã hội bấy giờ.
Đứng trước dòng sông Tiêu Tương thơ mộng nhưng cũng đầy u uất, Nguyễn Du như cảm nhận được sâu sắc nỗi lòng của Liễu Tông Nguyên khi xưa. Bài thơ “Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu” ra đời, thể hiện rõ sự thấu hiểu, sự đồng cảm của Nguyễn Du với người xưa:
Hành Lĩnh phù vân, Tiêu Thủy ba,
Liễu Châu cố trạch thử phi da ?
Nhất thân cích trục lục thiên lý,
Thiên cổ văn chương bát đại gia.
(Núi Hành mây nổi sóng sông Tiêu,
Có phải nhà xưa của Liễu Châu ?
Ruồng rẩy một thân non vạn dậm,
Tiếng tăm nghìn thuở tám văn hào.)
Hai câu thơ đầu là câu hỏi tu từ đầy bâng khuâng, hoài cổ. Hình ảnh “Núi Hành mây nổi, sóng sông Tiêu” vừa hùng vĩ, lãng mạn vừa man mác nỗi buồn. Đứng trước khung cảnh này, Nguyễn Du như nghe thấy tiếng lòng của Liễu Tông Nguyên vọng về từ chiều sâu lịch sử. Câu thơ thứ ba là lời thán phục trước tài năng và phẩm giá của Liễu Tông Nguyên: bị ruồng bỏ, đày ải đến nơi xa xôi hẻo lánh, nhưng ông vẫn kiên định với lí tưởng của mình, và để lại cho đời những tác phẩm văn chương bất hủ.
Nếu như bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du tập trung vào việc khắc họa chân dung và cuộc đời của Liễu Tông Nguyên thì bốn câu thơ cuối, ông lại hướng về nỗi niềm riêng của mình:
Huyết chỉ hãn nhan thành cổ hỹ,
Thanh khê, gia mộc nại ngu hà.
Tráng niên ngã diệc vi tài giả,
Bạch phát thu phong không tự ta.
(Máu bầm, mặt đẫm trong cùng khổ,
Cây đẹp, khe trong tiếng dại đầu.
Ta trẻ tưởng tài như gỗ quý,
Bạc đầu than vãn gió thu sầu.)
Hai câu thơ “Huyết chỉ hãn nhan thành cổ hỹ, Thanh khê, gia mộc nại ngu hà” là lời tự sự của Nguyễn Du thông qua hình ảnh và ý thơ trong tác phẩm của Liễu Tông Nguyên. Câu thơ cuối cùng, “Bạch phát thu phong không tự ta” như một lời tự nhận đầy xót xa về thân phận và tài năng bị vùi dập của mình. Giống như Liễu Tông Nguyên, Nguyễn Du cũng là người có tài, có tâm, nhưng lại phải sống trong một thời đại mà “tài lớn ít dùng”. Lời than thở ấy càng thấm thía hơn khi được đặt trong bối cảnh ông đang phải chấm nhận một chuyến đi sứ đầy vất vả và bất đắc dĩ.
Bài thơ “Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu” là một trong những sáng tác hay nhất của Nguyễn Du trong chủ đề thăm di tích. Bài thơ không chỉ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và nhịp điệu công phu, tinh tế của Nguyễn Du, mà còn thể hiện tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc và rộng mở của ông. Đồng thời, bài thơ cũng là minh chứng cho thấy sự giao thoa, kết nối giữa những tâm hồn lớn trong lịch sử.