Bản đồ các châu mường thời Trần
Nội dung bài viết
Sơn La, vùng đất Tây Bắc hùng vĩ, không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp mà còn lưu giữ những giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc. Bài viết này sẽ đưa bạn đọc khám phá hành trình hình thành và phát triển của tổ chức xã hội và bộ máy quản lý tại Sơn La, từ thời kỳ cổ truyền đến thời kỳ hiện đại, qua lăng kính văn hóa và lịch sử.
Sự đa dạng sắc tộc là một đặc trưng nổi bật của Sơn La. Từ xa xưa, vùng đất này đã là nơi cư trú của nhiều dân tộc, tiêu biểu là người Thái, người Mường, người Mông, người Khơ Mú, mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc của Sơn La.
I. Tổ chức xã hội cổ truyền
1. Xã hội người Thái
Từ thế kỷ XI, người Thái đã sinh sống tại vùng đất được sử sách ghi chép là Ngưu Hống, phiên âm từ Ngu Hấu trong tiếng Thái, mang ý nghĩa biểu trưng của Rắn Hổ Mang. Ngưu Hống được coi là đại diện cho Mười sáu châu Thái (Xíp hốc châu Táy), thực chất là một châu mường lớn (mường luông) chịu trách nhiệm thừa hành mệnh lệnh của triều đình đối với toàn khu vực. Vị trí mường luông thay đổi qua các thời kỳ, phản ánh sự thăng trầm quyền lực của các thủ lĩnh địa phương. Thế kỷ XIV là thời kỳ cực thịnh của Mười sáu châu Thái, một nửa trong số đó nằm trong hoặc một phần lãnh địa thuộc tỉnh Sơn La ngày nay. Đơn vị tụ cư nhỏ nhất của người Thái là bản, tiếp đến là mường phìa, nhiều mường phìa hợp thành châu mường. Bộ máy quản lý của người Thái được thiết lập từ rất sớm, với sự phân chia rõ ràng về chức trách và quyền hạn giữa các tầng lớp quý tộc, bình dân và đội ngũ thầy mo, thầy cúng.
2. Xã hội người Mường, người Mông, người Khơ Mú
Người Mường sống tập trung trong các mường, do các lang đứng đầu theo chế độ thế tập. Lang cun (đại thủ lĩnh) cai quản chiềng (xóm lớn nhất), còn lang đạo quản lý các xóm nhỏ hơn. Các lang nắm giữ nhiều đặc quyền về ruộng đất, bổng lộc và lao dịch.
Người Mông cư trú trong các giồng, giao, do lèng thầu, xeo phải hoặc mã phải đứng đầu. Các chức vụ cao hơn như trống truổ, thống lý, phó thống lý quản lý các khu vực rộng lớn hơn.
Người Khơ Mú sống thành các bản riêng hoặc sống xen kẽ trong các châu mường của người Thái, thường phải lệ thuộc vào các chủ mường.
Hình vẽ minh họa về xã hội người Thái
II. Bộ máy quản lý hành chính thời Lê
Thời Lê, triều đình trung ương bắt đầu can thiệp mạnh mẽ vào bộ máy quản lý hành chính tại Tây Bắc. Năm 1466, đạo Thừa tuyên Hưng Hóa được thành lập, bao gồm phần lớn địa bàn Sơn La ngày nay. Các châu Thái được đặt dưới sự quản lý của Đại tri châu, Tri châu hoặc Phụ đạo. Hệ thống quản lý hành chính thời Lê đã có sự thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước, thể hiện sự tập trung quyền lực về triều đình. Bài viết gốc cung cấp chi tiết về các châu như Phù Hoa, Mộc, Yên, Thuận, Mai Sơn, Sơn La, Quỳnh Nhai, phản ánh sự biến động về địa giới, tước vị và dòng họ cai quản. Cuối thời Lê, một số châu bị mất về tay nhà Thanh, gây ra nhiều tranh chấp về chủ quyền sau này.
III. Bộ máy quản lý hành chính thời Nguyễn
Thời Nguyễn, đặc biệt dưới triều Minh Mệnh, chế độ thổ ty thế tập bị bãi bỏ, thay thế bằng chế độ lưu quan. Quyết định này nhằm tập trung quyền lực về triều đình, xóa bỏ các đặc quyền của tầng lớp quý tộc địa phương. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý và khí hậu khắc nghiệt, chế độ lưu quan không phát huy hiệu quả, sau này phải đặt lại thổ quan ở một số châu.
IV. Bộ máy quản lý hành chính thời Pháp thuộc
1. Trước Cách mạng tháng Tám
Thời Pháp thuộc, Sơn La trải qua nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính. Ban đầu, người Pháp thành lập tỉnh Mường, sau đó là tỉnh Vạn Bú và cuối cùng là tỉnh Sơn La (năm 1904). Chính quyền thực dân thiết lập một bộ máy cai trị phức tạp, từ tỉnh xuống châu, mường, bản, sử dụng cả quan chức người Pháp và người bản xứ. Họ duy trì hệ thống chính quyền tự trị của các dân tộc thiểu số, thực hiện chính sách chia để trị. Bên cạnh đó, thực dân Pháp cũng xây dựng các cơ quan chuyên trách về kinh tế, xã hội, quân sự, tư pháp, phục vụ cho mục đích khai thác và bóc lột thuộc địa.
2. Thời kỳ kháng chiến
Trong kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp âm mưu lập Liên bang Thái tự trị, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Mặc dù Liên bang Thái tự trị có bộ máy tổ chức khá hoàn chỉnh, nhưng thực chất mọi quyền hành vẫn nằm trong tay người Pháp. Sau chiến thắng Tây Bắc năm 1952, Liên bang Thái tự trị tan rã.
Kết luận
Hành trình phát triển của tổ chức xã hội và bộ máy quản lý tại Sơn La là một quá trình lâu dài và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố lịch sử, chính trị và văn hóa. Từ tổ chức xã hội cổ truyền mang tính tự trị của các dân tộc, đến sự can thiệp của triều đình trung ương thời phong kiến, rồi đến bộ máy cai trị của thực dân Pháp và âm mưu chia rẽ của Liên bang Thái tự trị, tất cả đều để lại những dấu ấn sâu đậm trên vùng đất này. Việc nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử quản lý hành chính tại Sơn La không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá khứ mà còn cung cấp những bài học quý báu cho việc xây dựng và phát triển địa phương trong thời đại ngày nay.
Tài liệu tham khảo:
- Cầm Trọng. Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam. Nxb CTQG, 2005.
- Cầm Trọng. Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
- Phạm Thận Duật. Toàn tập. Nxb VHTT, Hà Nội, 2000.
- Đại Việt sử ký toàn thư, tập II. Nxb VHTT, Hà Nội, 2000.
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1. Nxb GD, Hà Nội, 2007.
- Đại Nam nhất thống chí.
- Lê Quý Đôn. Kiến văn tiểu lục. Nxb VHTT, Hà Nội, 2007.
- Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1. Nxb Sử học, Hà Nội, 1960.
- Nguyễn Văn Siêu. Phương Đình dư địa chí. Nxb VHTT, Hà Nội, 2001.
- Đại Nam thực lục, Chính biên, tập 2, 4, 5.
- Pierre Grossin. Tỉnh Mường Hoà Bình. Nxb Lao động, Hà Nội, 1994.
- Xanh Pulốp. Tiểu dẫn về tỉnh Sơn La. 1932.
- Quắm tố mương của Mường Piềng-Thuận Châu.
- Quắm tố mương của Mường La.
- Nguyễn Tuân. Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I. Nxb Văn học, Hà Nội, 2003.
Chú thích: Các chú thích trong bài viết gốc được giữ nguyên và đánh số lại theo thứ tự xuất hiện.