Chùa Vĩnh Nghiêm, Yên Dũng, Bắc Giang, nơi hội tụ tinh hoa và linh khí đất trời, góp phần nuôi dưỡng truyền thống hiếu học của vùng đất này.
Nội dung bài viết
Bắc Giang, mảnh đất trung du miền núi, tuy đất rộng người thưa, kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ nhưng lại sở hữu một truyền thống khoa bảng đáng tự hào. Trong suốt 825 năm, từ 1075 đến 1919, người Bắc Giang đã đóng góp cho đất nước 60 vị đại khoa, chiếm 1/10 số đại khoa vùng Kinh Bắc và 1/50 số đại khoa cả nước. Điều gì đã tạo nên truyền thống hiếu học bền bỉ này? Phải chăng chính là nhờ “mạch đất tốt tụ, tinh hoa hội tụ, khí hồn trọng của cả một phương” như Phan Huy Chú đã nhận định trong Lịch triều hiến chương – Dư địa chí?
Từ Vùng Núi đến Đồng Bằng: Hành Trình Khoa Bảng Bắc Giang
Từ thời kỳ cổ đại, khu vực Giáp Động, vùng núi sông bao quanh sông Lục Nam, đã là một trung tâm sôi động, minh chứng cho sức sống của Đại Việt. Các dòng họ Phò mã lang như họ Giáp, họ Thân đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục ở địa phương. Sông Lục Nam, dòng sông huyết mạch, kết nối Thăng Long với Quảng Tây (Trung Quốc), tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, giao lưu văn hóa. Các thị trấn như Đầm, Chũ, Nghĩa Phương – Cương Sơn, Đức La – Phương Nhãn trở thành những trung tâm kinh tế, thương mại sầm uất, đồng thời là nơi Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo sớm du nhập và hòa quyện.
Vùng sông Lục Nam cũng là nơi khai khoa và bang giao sớm nhất của Đại Việt. Những dấu tích kiến trúc thời Lý như gạch ngói, tảng hoa sen, bát đĩa men ngọc với dòng chữ “Lý gia đệ tam Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” (1075) cùng phế tích chùa Chúc Thánh, Hưng Long, Nhạn Tháp, Long Vũ… đã minh chứng cho điều này. Cuối thời Lý, Đại sư Ân Không (Na Ngạn) đã tu luyện và hoàn thành Thiền Uyển tập anh tại đây.
Truyền thống khoa bảng lan tỏa từ lưu vực sông Lục Nam xuống sông Thương, sông Cầu. Làng Song Khê (thành phố Bắc Giang) nổi lên với Quách Nhẫn (Thám hoa năm 1275), Đào Toàn Mân (Đệ nhị giáp năm 1352), và Đào Sư Tích (Trạng nguyên năm 1374). Làng Trâu Lỗ (Hiệp Hòa) tự hào với Trạng nguyên Đoàn Xuân Lôi (1384). Thời Lê sơ, khoa bảng Bắc Giang nở rộ, đặc biệt là huyện Yên Dũng. Thời Mạc, số lượng đại khoa tăng đáng kể, Hiệp Hòa dẫn đầu. Thời Lê Trung Hưng và Nguyễn, số lượng đại khoa giảm dần, tập trung ở Yên Dũng và Hiệp Hòa.
Sự thay đổi địa giới hành chính đã ảnh hưởng đến số liệu thống kê khoa bảng. Việt Yên vươn lên dẫn đầu nhờ tiếp nhận các làng có truyền thống khoa bảng của Yên Dũng. Hiệp Hòa đứng thứ hai, thành phố Bắc Giang thứ ba nhờ sáp nhập Song Khê, Phương Độ (Yên Dũng) và Dĩnh Kế (Phượng Nhãn).
Bắc Giang cũng có truyền thống võ học. Từ năm 1721, khi Võ học sở được thành lập, Bắc Giang đã đóng góp 5 Tiến sĩ võ.
Trung Khoa, Tiểu Khoa và Nền Tảng Truyền Thống
Một trang sách cổ, minh chứng cho truyền thống học tập và nghiên cứu của người Việt.
Bên cạnh đại khoa, trung khoa và tiểu khoa trong các kỳ thi Hương cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền thống khoa bảng Bắc Giang. Tuy nhiên, việc thiếu Hương khoa lục thời Lý-Trần-Lê khiến việc thống kê gặp khó khăn. Một số cứ liệu từ thần tích, bia ký, văn bia tại các địa phương cho thấy sự hiện diện của các vị trung khoa, tiểu khoa từ thời Lý đến thời Nguyễn. Các hương ước, tục lệ của các làng xã cũng thể hiện sự quan tâm đến việc học hành và khuyến khích người dân theo đuổi con đường khoa cử. Việc xây dựng Văn chỉ ở các cấp hành chính cũng là một minh chứng cho sự coi trọng nền học vấn của người Bắc Giang.
Đóng Góp của Khoa Bảng Bắc Giang cho Đất Nước
Không phải cứ đỗ đạt cao là nắm giữ chức vụ cao và đóng góp nhiều cho đất nước. Tuy nhiên, trong số 60 vị đại khoa của Bắc Giang, có 15 vị làm Thượng thư. Hầu hết các đại khoa đều giữ chức vụ trong triều đình. Nhiều người trở thành nhà ngoại giao tài ba như Hà Chiếu, Dương An Quý, Đào Sư Tích, Giáp Hải, Vũ Cẩn, Hoàng Công Phụ, Thân Khuê, Thân Toàn, Thân Hành.
Bắc Giang cũng có những nhà đào tạo nhân tài như Đào Toàn Bân, Thân Nhân Trung (người có câu nói nổi tiếng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”). Trần Đăng Tuyển được biết đến với tài năng quân sự. Thời Nguyễn, Nguyễn Danh Vọng, Nguyễn Huy Bính, Nguyễn Đình Tuân (người có công đưa giống chè Phú Thọ về Tân Cương) cũng có nhiều đóng góp cho đất nước. Một trường hợp đặc biệt là Nguyễn Duy Năng, đại khoa thời Mạc, sau đó trở về Thuận Hóa và trở thành thủy tổ của dòng họ Nguyễn Khoa hiển hách.
Con đường khoa bảng đã tạo nên những tên tuổi lẫy lừng cho Bắc Giang, những người đã cống hiến hết mình cho đất nước. Tuy nhiên, không phải ai cũng đạt được thành công vang dội. Bên cạnh những chính trị gia toàn tài như Giáp Hải, nhà văn hóa lớn như Thân Nhân Trung, hay nhà kinh bang tế thế như Nguyễn Đình Tuân, vẫn còn rất nhiều người chỉ làm tròn bổn phận trong các chức vụ được giao.
Kết Luận
Truyền thống khoa bảng Bắc Giang là một nét đẹp văn hóa đáng tự hào, thể hiện tinh thần hiếu học, trọng dụng nhân tài của người dân nơi đây. Từ vùng núi đến đồng bằng, từ thời Lý đến thời Nguyễn, khoa bảng Bắc Giang đã sản sinh ra nhiều nhân tài, đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những bài học lịch sử về truyền thống khoa bảng này vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Tài liệu tham khảo
- Việt sử lược (Trần Quốc Vượng dịch). Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm VHNNĐT, 2001.
- Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú. Nxb. Trẻ, 2014.
- Nguyễn Trãi toàn tập (Tân biên) tập 2. Nxb. VH và TTNC Quốc học, 2001.
- Đại Việt sử ký toàn thư.
- Minh thực lục – Thế Tông.
- Minh sử.
- Đại Nam chính biên liệt truyện.
- Bắc Giang địa chí – Trịnh Như Tấu. 1937.
- Lục Nam địa chí. (Khoảng năm 1889). Viện Nghiên cứu Hán – Nôm (ký hiệu A.2037).