Kinh Bắc, vùng đất địa linh nhân kiệt, tự hào với bề dày lịch sử và văn hóa rực rỡ. Trong suốt 825 năm (1075-1901), người Kinh Bắc đã ghi dấu ấn sâu đậm trên trường khoa cử, khẳng định vị thế hàng đầu trong giới trí thức cả nước. Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiến chương loại chí, đã ca ngợi Kinh Bắc là vùng đất “mạch núi cao vót, nhiều sông quanh vòng”, nơi “tinh hoa họp vào đấy, nên sinh ra nhiều danh thần”. Bắc Ninh tỉnh chí cũng đồng điệu khi khẳng định: “Hai phủ Từ Sơn và Thuận Thành có nhiều người văn học”.
Nội dung bài viết
Văn Học Dân Gian Và Dấu Ấn Khoa Bảng
Văn học dân gian, đặc biệt là kho tàng phương ngôn Kinh Bắc, đã phản ánh sinh động truyền thống khoa bảng rực rỡ của quê hương. Những câu phương ngôn mộc mạc, dí dỏm mà sâu sắc đã khắc họa nên bức tranh toàn cảnh về sự thành đạt của sĩ tử Kinh Bắc trên trường thi. Câu nói “Một giỏ Sinh đồ, một bồ ông Cống, một đống ông Nghè, một bè Tiến sĩ, một bị Trạng nguyên, một thuyền Bảng nhỡn” không chỉ là lời khái quát mà còn là minh chứng cụ thể cho số liệu mà Phan Huy Ôn đã dẫn ra trong Liệt huyện đăng khoa bị khảo. Từ thời Lý đến hết Lê – Mạc, Kinh Bắc có 593 vị đỗ đại khoa, trong đó có 29 Hoàng giáp, 418 Đồng Tiến sĩ, 15 Trạng nguyên và 8 Bảng nhỡn. Con số này chưa tính đến thời Nguyễn, khi số lượng người đỗ Hương khoa đã lên tới 310 người.
Hình ảnh minh họa về khoa cử thời xưa.
Đông Ngàn – Cái Nôi Của Nền Văn Hiến Kinh Bắc
Trong hơn hai mươi huyện của Kinh Bắc thời cổ, Đông Ngàn nổi lên như một trung tâm văn hiến, chiếm số lượng người đỗ đạt cao nhất, gần ngang bằng với Nghệ An và Thanh Hóa. Bắc Ninh tỉnh chí đã khẳng định: “Nền văn hiến ở phủ Từ Sơn, từ xưa có huyện Đông Ngàn là hơn cả”. Phương ngôn Kinh Bắc cũng ghi nhận điều này qua câu: “Dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ; Tương Vân Cầu, bầu Đông Lữ, chữ Đông Ngàn”. Trong số khoảng 90 làng của Đông Ngàn xưa, có tới 34 làng có người đỗ đạt, tức là cứ 3 làng thì có một làng đại khoa.
Tam Sơn – “Một Kho Nhân Tài”
Làng Tam Sơn đứng đầu huyện Đông Ngàn với 17 vị đỗ đại khoa, bao gồm 2 Trạng nguyên (Nguyễn Quán Quang năm 1246, Ngô Miễn Thiệu năm 1518), 1 Bảng nhãn (Ngô Thầm năm 1413) và 1 Thám hoa (Ngô Sách Tố). Phương ngôn Kinh Bắc đã ví Tam Sơn là “đất ba gò, của trời vô tận, một kho nhân tài”. Những nhân tài này không chỉ xuất sắc về văn chương mà còn đảm nhiệm nhiều trọng trách trong triều đình, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những Ngôi Làng Khoa Bảng Khác
Bên cạnh Tam Sơn, Kinh Bắc còn nhiều làng khoa bảng nổi tiếng khác như Kim Đôi, Lạc Thổ, Đông Hồ, Dương Sơn, Đình Bảng và Bảo Triện. Mỗi làng đều có những câu chuyện, những giai thoại về các vị khoa bảng, phản ánh truyền thống hiếu học và tinh thần trọng chữ nghĩa của người dân Kinh Bắc.
Phương Ngôn Và Chân Dung Các Vị Khoa Bảng
Phương ngôn Kinh Bắc không chỉ ghi nhận số lượng người đỗ đạt mà còn khắc họa chân dung, tính cách, tài năng và cả những câu chuyện đời tư của các vị khoa bảng. Từ ông Trạng khai khoa Lê Văn Thịnh đến Nguyễn Thuyên, Lý Đạo Tái, Dương Tử Do, Nguyễn Thực, Nguyễn Kính Thần, Bạch Hồng Nho, Nguyễn Giản Thanh, Nguyễn Đăng, Nguyễn Công Hãng,… mỗi nhân vật đều hiện lên sinh động, gần gũi qua lăng kính của phương ngôn.
Kết Luận
Truyền thống khoa bảng của Kinh Bắc là một di sản văn hóa quý giá, phản ánh tinh thần hiếu học, trọng tri thức của người dân nơi đây. Phương ngôn Kinh Bắc, với ngôn ngữ mộc mạc, giàu hình ảnh, đã góp phần lưu giữ và truyền bá những giá trị văn hóa này đến thế hệ hôm nay. Việc nghiên cứu và phát huy những giá trị này là cần thiết để khơi dậy niềm tự hào dân tộc, đồng thời góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững, dựa trên nền tảng tri thức và văn hóa.
Tài Liệu Tham Khảo
- Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí.
- Bắc Ninh tỉnh chí.
- Phan Huy Ôn, Liệt huyện đăng khoa bị khảo.
- Đại Nam nhất thống chí.