Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa đặc sắc, ăn sâu vào tiềm thức của người Việt, thể hiện lòng hiếu thảo và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Từ việc thờ phụng tổ tiên trong từng gia đình, tín ngưỡng này đã lan tỏa và thăng hoa thành tín ngưỡng thờ cúng các vị tiền hiền, thành hoàng làng, và cuối cùng là Quốc Tổ Hùng Vương, vị Thủy Tổ chung của cả dân tộc. Bài viết này sẽ đi sâu vào giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và sự mở rộng thành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đồng thời thảo luận về giai đoạn Hồng Bàng Thị trong lịch sử dân tộc.
Nội dung
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Nền tảng của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
Ngôi làng, đơn vị xã hội cơ sở của người Việt, là cái nôi nuôi dưỡng và bảo tồn các giá trị tinh thần truyền thống. Trong đó, gia đình là tế bào cấu thành nên làng xã, là hạt nhân giúp làng xã vượt qua những biến động của lịch sử. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ chính là biểu hiện của sự tôn kính, biết ơn đối với những người đã sinh thành, dưỡng dục, đồng thời thể hiện nhận thức về vũ trụ quan và nhân sinh quan của người Việt. Quan niệm về sự sống và cái chết, về sự liên kết giữa hai cõi âm dương được thể hiện rõ nét qua tín ngưỡng này. Dù xã hội đã có nhiều thay đổi, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, được xem như “Đạo Ông Bà”, thậm chí là “tôn giáo dân tộc”, minh chứng cho sức sống mãnh liệt của nó.
Việc tiếp nhận các tôn giáo lớn từ nước ngoài không làm phai mờ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Ngược lại, nó vẫn giữ vững vai trò của mình, hòa quyện với các nghi thức tôn giáo, tạo nên một nét đẹp văn hóa tâm linh độc đáo. Tín ngưỡng này là minh chứng cho truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, là sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa các thế hệ trong gia đình và cộng đồng.
Hồng Bàng Thị: Chân lý lịch sử hay biểu trưng văn hóa?
Giai đoạn Hồng Bàng Thị, với sự xuất hiện của nhà nước Văn Lang và các vị vua Hùng, là một chủ đề gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu lịch sử. Một số học giả cho rằng đây là giai đoạn hư cấu, dựa trên những truyền thuyết hoang đường, không có thật trong lịch sử. Họ chỉ ra những điểm phi lý về niên đại và số lượng vua Hùng, cho rằng khoảng thời gian 2621 năm với chỉ 18 đời vua là không thực tế.
Tuy nhiên, với sự phát triển của khảo cổ học, đặc biệt là kỹ thuật phân tích C14, nhiều bằng chứng khoa học đã được tìm thấy, khẳng định sự tồn tại của nhà nước Văn Lang và văn hóa Đông Sơn. Việc phát hiện các di chỉ khảo cổ thuộc các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn đã phần nào vén màn bí mật về thời kỳ này. Nhu cầu trị thủy, chống giặc ngoại xâm đã thúc đẩy sự hình thành nhà nước đầu tiên của người Việt.
Vấn đề còn lại là xác định chính xác niên đại của triều đại Hùng Vương. Có thể thời gian trị vì thực sự không kéo dài đến 2621 năm, hoặc con số 18 đời vua chỉ mang tính biểu trưng, thực tế có thể nhiều hơn. Dù sao, sự tồn tại của nhà nước Văn Lang là một thực tế lịch sử không thể phủ nhận. Giai đoạn Hồng Bàng Thị, dù là chính sử hay huyền sử, đều mang ý nghĩa văn hóa to lớn, thể hiện khát vọng về nguồn cội và tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Giá trị văn hóa trường tồn
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một dạng thức mở rộng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Việc lựa chọn Quốc Tổ Hùng Vương thể hiện sự thống nhất về nguồn cội của mọi người dân Việt Nam. Hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ, với biểu tượng Rồng và Tiên, mang đậm dấu ấn của Totem giáo, thể hiện khát vọng về sức mạnh và sự phồn thịnh.
Hình ảnh trống đồng Đông Sơn với hình tượng chim Lạc là minh chứng cho sự giao thoa giữa tín ngưỡng và văn hóa vật chất. Các truyền thuyết về Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng phản ánh tinh thần cần cù lao động, ý chí chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lễ hội Đền Hùng hằng năm là dịp để con cháu hướng về cội nguồn, thể hiện lòng biết ơn đối với tổ tiên.
Kết luận
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là hai nét văn hóa đặc sắc, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” được hun đúc và truyền承 từ đời này sang đời khác, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự phát triển của đất nước. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa này là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
(Tư liệu gốc)
- [10] Ngô Sĩ Liên (2013), Đại Việt sử ký toàn thư (trọn bộ) (Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), Nxb Thời đại.
- [16] Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư từ thượng cổ đến hiện đại bản PDF, Hiệp hội Liên đới người tỵ nạn Đông Dương.
(Nghiên cứu)
- [1] Đào Duy Anh (2010), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thời đại.
- [2] Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.
- [4] Đỗ Lan Hiền (2015), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: truyền thống và sự thật lịch sử về thời đại Hùng Vương, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [5] Trần Trọng Kim (2015), Việt Nam sử lược, Nxb Văn học.
- [6] Phan Duy Kha (2009), Nhìn về thời đại Hùng Vương, Nxb Lao động.
- [9] Hồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc.
- [13] Nguyễn Quang Ngọc (Cb) (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.
- [14] Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2011), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884, Nxb Tổng hợp TP. HCM.
- [15] Nguyễn Phan Quang (2009), Ngược về nguồn cội (tiểu luận và tư liệu), Nxb Tổng hợp TP. HCM.
- [17] Ngô Đức Thịnh (2016), Tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
- [18] Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Trẻ.
- [19] Lương Thị Thoa (Cb) (2015), Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên ở một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.
(Các nghiên cứu khác)
- [3] Phạm Thanh Hằng (2015), Giá trị văn hóa trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [7] Vũ Ngọc Khánh (2012), Gia đình – gia phong trong văn hóa Việt, Nxb Hà Nội.
- [8] Tạ Quốc Khánh, Lê Tâm Đắc (2015), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong lịch sử Việt Nam, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [11] Nguyễn Phú Lợi (2015), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: đặc trưng cơ bản và các giá trị cần phát huy, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [12] Phùng Thị An Na (2015), Về danh xưng “Hùng Vương” trong tín ngưỡng thờ Quốc Tổ của người Việt, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [20] Nguyễn Tuấn Thùy (2015), Vai trò cỉa tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong việc hình thành bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [21] Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc (2013), Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia thần, Nxb Văn hóa Văn nghệ.
- [22] Trần Minh Trưởng (2015), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ góc nhìn lịch sử, in trong “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam” (Tạ Ngọc Tấn chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị.
- [23] Trần Quốc Vượng (2015), Về An Dương Vương, in trong “Văn hóa Việt Nam: Những hướng tiếp cận liên ngành”, Nxb Văn học.