Thiền định – Một Phương Pháp Tâm Lý Vô Cùng Quan Trọng và Giá Trị

Trước tiên, chúng ta hãy khám phá về tầm quan trọng và giá trị của Thiền định.

Định nghĩa về thiền định?

Thiền định là gì? Thiền, trong tiếng Phạn, được phiên âm là “Thiền na” và từ xưa đã được dịch là “tư duy”, nhưng các học giả hiện nay dùng từ “Tĩnh lự”. Tư duy có nghĩa là tu tập bằng cách suy nghĩ, nghiên cứu và tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến ý thức. Tĩnh lự có nghĩa là sử dụng tĩnh thể của tâm để xem xét vấn đề đạo pháp.

Chữ “Ðịnh”, trong tiếng Phạn, được phiên âm là “Tam muội” (Samadhi), có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý bị phân tán. Kết hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định nghĩa chung: Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất mà không để tâm ý bị phân tán, để tâm thể được yên bình và cho phép tâm dụng khỏe mạnh, từ đó có thể quan sát và suy nghĩ về chân lý.

Thiền định có thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự.
Thiền định có thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự.

Các loại thiền định

Thiền định có thể được xem như một trạng thái của tâm lý, được gọi là trạng thái Tĩnh lự. Tuy nhiên, ở Dục giới (thế giới vật chất), tâm lý không thể đạt được trạng thái này, chỉ có thể tìm thấy ở Sắc giới (giới tinh thần) và Vô sắc giới (giới vô hình). Cụ thể hơn, Thiền thuộc về Sắc giới và Ðịnh thuộc về Vô sắc giới. Ở mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều được chia thành bốn cấp độ từ thấp đến cao, vì vậy có danh từ là Tứ thiền và Tứ định.

Tuy Tứ thiền và Tứ định này là kết quả của công sức tu tập Thiền định và việc gieo trồng căn nguyên thiện, nhưng chúng cũng áp dụng cho toàn bộ Phật pháp, Thế gian pháp, và cả Pháp và Phàm. Có nghĩa là dù bạn tu tập theo pháp phật hay phương pháp nào, miễn có con đường và công sức, bạn đều có thể đạt được Tứ thiền và Tứ định. Tuy nhiên, đây chỉ là Pháp thế giới mà thôi.

Còn khi nói về pháp Ðịnh của đức Phật, Bồ tát và A-la-hán, có một sự khác biệt. Đó là Thiền định thuộc về Xuất thế gian pháp, không thể tìm thấy trong phạm vi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Để đạt được trạng thái Tĩnh lự của những bậc đó, người ta phải thoát ly khỏi Tam giới. Trong khi đó, khi còn lụn bại trong Tam giới, tâm chỉ có thể đạt đến Tứ định.

Muốn đạt được Tứ thiền và Tứ định, chỉ cần thoát ly và chấm dứt phiền não ở Dục giới. Tuy nhiên, để đạt được pháp Ðịnh tối cao, cần phải loại bỏ hoàn toàn tất cả phiền não của Vô sắc giới.

Trước khi có thể đạt được Ðịnh vô cảm, cần phải trải qua Thiền, vì Thiền là nền tảng của Ðịnh. Có được “ngũ nhãn” (ngũ giác), “lục thông” (sáu sự thông suốt), cũng nhờ Thiền. Hơn nữa, Thiền còn có khả năng quan sát và nghiên cứu. Nếu muốn hiểu rõ chân lý, chắc chắn cần Thiền, vì vậy Thiền là Pháp cần thiết nhất cho người học đạo.

Mỗi ngày, bạn nên cố gắng làm sạch cỏ dại trong tâm mình.

Ðứng về mặt các cấp độ của Thiền, kinh sách dạy như sau:

  1. Thế giới thiền. Thiền này có hai loại: Căn bản vị thiền và Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm mười hai phẩm, chia thành ba nhóm: Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không.

Người thường mắc tình trạng tâm ói mửa của Dục giới nên tu Tứ thiền. Người muốn đạt được phước lớn thì tu Tứ vô lượng. Người cảm thấy chán chường với tình trạng hạn hẹp của Sắc giới nên tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn bản cho pháp thiện pháp xuất thế gian, nên gọi là Căn bản thiền. Và vì an trú trong mười hai phẩm đó, người tu Thiền cũng thích cảm giác thanh thản của Thiền, nên gọi là Căn bản vị thiền.

Căn bản vị thiền được chia thành hai loại: Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có trí huệ cao thì tu Lục diệu môn, người nào có ý thức cao thì tu Thập lục đặc thắng. Những ai có trí huệ và ý thức như nhau có thể tu cả hai loại. Bởi vì ta có thể dựa vào pháp Thiền này để phát sinh trí tuệ vô lậu, không chỉ là trí tuệ thuần túy, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là Căn bản tịnh thiền.

Dù sao, cả hai loại này đều chỉ thuộc về thế giới, bởi trước đời Phật chưng thế, pháp Thiền này đã tồn tại.

Thiền định được chia làm ba loại
Thiền định được chia làm ba loại

  1. Xuất thế gian thiền. Pháp Thiền này thuộc về các bậc xuất thế (Bồ tát). Có bốn Thiền quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn Thiền quán này, mặc dù dùng các vấn đề hiện thực làm đối tượng suy nghĩ, nhưng có thể đạt được trạng thái tránh xa dục tình và phát sinh trí tuệ vô lậu, nên gọi là Xuất thế gian thiền.

  2. Xuất thế gian thượng thượng thiền. Đây là pháp Thiền cao cả của các bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì giải thích về chín môn đại thiền như sau:

  • “Tự tánh thiền” nghĩa là quan sát tâm thật sự mà không cần tầm nhìn bên ngoài.

  • “Nhất thiết thiền” có khả năng tự tổ chức và giải thoát.

  • “Nan thiền” là môn Thiền khó tu luyện và tinh tế.

  • “Nhất thiết môn thiền” có nghĩa là tất cả các pháp Thiền định đều phát sinh từ môn này.

  • “Thiện nhân thiền” là môn Thiền của những người có tâm hồn cao thượng.

  • “Nhất thiết hạnh thiền” là môn Thiền hưởng lợi từ toàn bộ hạnh pháp Ðại thừa.

  • “Trừ não thiền” có khả năng loại bỏ phiền não và khổ đau cho chúng sinh.

  • “Thử thế tha thế lạc thiền” có khả năng mang lại hạnh phúc cho chúng sinh trong hiện tại và tương lai.

  • “Thanh tịnh tịnh thiền” có khả năng loại bỏ hoàn toàn các ràng buộc và đạt được thông báo vô sắc Bồ đề. Khi đạt đến môn Thiền này, tâm thanh tịnh hoàn toàn và không còn nhìn thấy tâm thanh tịnh đó nữa, nên gọi là Tịnh báo.

Công năng của thiền định

Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định.
Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định.

Cảm nhận bình an trong từng hơi thở là cảm nhận bình an trong cuộc sống.

Theo tinh thần của Bồ tát, tu tập Thiền định có thể đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau:

  • Đầu tiên, đạt được sự ổn định trong pháp luật uy nghi. Khi tu Thiền định, cần tuân thủ các quy tắc pháp luật, và sau một thời gian, ngũ căn sẽ trở nên trong sạch và tinh tuyền được thanh lọc, tâm trí thẳng thắn và ổn định mà không cần phải cố gắng.

  • Thứ hai, cải thiện khả năng từ bi. Khi tu Thiền định, có thể nuôi dưỡng tình yêu và sẵn lòng giúp đỡ mọi người.

  • Thứ ba, tận hưởng sự không phiền não. Nhờ Thiền định, các phiền não như ham muốn, sự mất an toàn và phiền muộn không còn tồn tại.

  • Thứ tư, giữ gìn các giác quan. Không để các cảm giác như màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị giác và xúc giác gây rối.

  • Thứ năm, tràn đầy niềm vui. Xem Thiền định như một món ăn thú vị hơn bất kỳ món ăn nào trên thế gian này.

  • Thứ sáu, thoát khỏi sự ham muốn. Khi tâm trí yên bình, không còn sự phát sinh và làm choáng ngợp bởi ham muốn.

  • Thứ bảy, nhìn thấy rõ chân không mà không bị mắc kẹt vào những ảo tưởng và tưởng tượng hư vô.

  • Thứ tám, giải thoát khỏi sự ràng buộc và đạt được tự do.

  • Thứ chín, khai triển trí huệ vô hạn và ở trong cảnh giới của các bậc Phật.

  • Thứ mười, đạt được giải thoát hoàn toàn và không còn bị ảnh hưởng bởi bất kỳ quả nghiệp nào.

Chúng ta có thể tóm tắt những kết quả tốt đẹp của Thiền định như sau:

Ngũ căn được tự do, phiền não bị đẩy lùi, lòng từ bi mở rộng, trí huệ sáng rõ, và cảnh giới giải thoát hiện ra trước mắt. Phương pháp này có công dụng quý báu, hiệu quả phi thường, làm sao chúng ta có thể bỏ qua được?

Chúng tôi hy vọng rằng vì những lợi ích thiết thực như đã nói ở trên, quý vị Phật tử sẽ cố gắng tu tập pháp môn Thiền định này để đạt được kết quả trong thời gian ngắn.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bằng sự kết hợp tinh tế giữa con người và công nghệ AI, chúng tôi tạo ra những bài viết không chỉ độc đáo mà còn đầy hấp dẫn.

Bài viết liên quan