Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, miền Tây Nam Bộ là vùng đất hoang sơ, địa hình hiểm trở, giao thông cách trở. Trong bối cảnh ấy, xuất hiện một vị tướng tài ba, văn võ song toàn, đã dành cả cuộc đời mình để khai phá và xây dựng vùng đất này. Đó chính là Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại. Tuy nhiên, xoay quanh cuộc đời và sự nghiệp của ông, vẫn còn nhiều thông tin chưa chính xác. Bài viết này, dựa trên các nguồn sử liệu chính thống như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí, cùng một số nghiên cứu khác, sẽ làm rõ những điểm chưa thống nhất về Thoại Ngọc Hầu, góp phần khắc họa chân dung một danh nhân lịch sử của dân tộc.
Nội dung bài viết
Thời điểm vét sông Thoại Hà
Nhiều tài liệu ghi chép khác nhau về thời điểm vét sông Thoại Hà (tên cũ là Ba Rạch hay Tam Khê). Đại Nam nhất thống chí và Đại Nam liệt truyện cho rằng việc này diễn ra vào năm Mậu Dần (1818). Trong khi đó, Đại Nam thực lục và Quốc triều chính biên toát yếu lại khẳng định là tháng 11 năm Đinh Sửu (1817). Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, hoàn thành năm 1820, cũng ghi nhận việc vét sông Ba Rạch bắt đầu từ tháng 11 năm Đinh Sửu (1817). Tuy nhiên, cũng trong tác phẩm này, khi đề cập đến núi Thoại Sơn, lại ghi là tháng 4 năm Mậu Dần (1818), vua ban tên núi là Thoại Sơn sau khi Thoại Ngọc Hầu “kinh lý hà đạo”.
Vậy đâu mới là thời điểm chính xác? Bia Thoại Sơn, được khắc sau tiết Đông chí năm Nhâm Ngọ (1822), ghi lại rằng mùa xuân năm Mậu Dần (1818), Thoại Ngọc Hầu vâng chỉ đào kinh Đông Xuyên (tức sông Tam Khê). Công việc chỉ kéo dài hơn một tháng. Đến tháng 4 cùng năm, ông “kinh lý đường sông” và được vua ban tên núi là Thoại Sơn. Như vậy, có thể thấy sông Tam Khê được khởi công vét vào tháng 3 năm Mậu Dần (1818).
Cuối khu dân cư là kinh Vĩnh Tế (ảnh được chụp từ đỉnh núi Sam vào đầu tháng 6/2014)
Nguồn gốc tên gọi kênh Vĩnh Tế
Một số tác giả cho rằng tên kinh Vĩnh Tế được đặt theo tên vợ của Thoại Ngọc Hầu là Châu Thị Tế sau khi kinh đào xong. Tuy nhiên, điều này không chính xác. Đại Nam thực lục ghi rõ, tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua ra lệnh đào sông từ Châu Đốc đến Hà Tiên và đặt tên là Vĩnh Tế. Gia Định thành thông chí cũng xác nhận điều này.
Việc đặt tên kinh ngay từ khi khởi công càng được củng cố bởi việc Đại Nam thực lục ghi nhận việc đặt trạm đường thủy trên sông Vĩnh Tế vào tháng 2 năm Canh Thìn (1820). Chính Thoại Ngọc Hầu, trong bia Thoại Sơn, cũng tự mình khẳng định việc đào kinh Vĩnh Tế.
Hai chữ “Vĩnh Tế” mang ý nghĩa sâu sắc, thể hiện mong muốn của triều đình về một con kênh mang lại lợi ích lâu dài cho quốc kế dân sinh, đồng thời cứu giúp, che chở cho người dân.
Số lượng binh dân tham gia đào kênh Vĩnh Tế
Có nhiều số liệu khác nhau về số lượng binh dân tham gia đào kênh Vĩnh Tế. Nhiều tài liệu cho rằng con số này lên tới 50 vạn người, một con số khó tin. Thực tế, công việc đào kênh được chia làm 3 đợt, mỗi đợt kéo dài từ 3-4 tháng vào mùa khô.
- Đợt 1: Từ tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819, dương lịch là tháng 1/1820) đến tháng 3 năm Canh Thìn (1820) với 10.500 người.
- Đợt 2: Từ tháng 2 năm Quý Mùi (1823) đến tháng 4 cùng năm với 45.000 người.
- Đợt 3: Từ tháng 2 năm Giáp Thân (1824) đến tháng 5 cùng năm với hơn 24.700 người.
Tổng cộng, số lượng binh dân tham gia là hơn 80.200 người.
Mộ Thoại Ngọc hầu.
Bia Thoại Sơn và bản sao tại lăng mộ
Bia Thoại Sơn gốc được dựng tại núi Sập sau tiết Đông chí năm Nhâm Ngọ (1822). Bản sao tại lăng mộ Thoại Ngọc Hầu do một nhóm người sao chép và dựng lại hơn nửa thế kỷ sau. Tuy nhiên, bản sao này có nhiều sai sót, cả về nội dung lẫn hình thức so với bản gốc. Chẳng hạn, tên vợ Thoại Ngọc Hầu bị ghi sai, một số địa danh, chức quan chưa xuất hiện vào thời điểm đó cũng được thêm vào.
Nhà bia trước lăng mộ Thoại Ngọc hầu ở núi Sam, Châu Đốc.
Mặt trước của tấm bia trong nhà bia trước lăng mộ Thoại ngọc hầu.
Bài bia Thoại Sơn “chép lại” ở mặt sau tấm bia đặt trong nhà bia trước lăng mộ Thoại Ngọc hầu
Một số đính chính khác
- Cao Miên hay Chân Lạp? Vào thời Thoại Ngọc Hầu, triều Nguyễn gọi vương quốc Campuchia ngày nay là Cao Miên. Tên gọi Chân Lạp được sử dụng sau này, dưới thời vua Thiệu Trị, để tránh húy kỵ.
- Phó Đổng đốc đào kinh Vĩnh Tế: Đó là Phan Văn Tuyên chứ không phải Nguyễn Văn Tuyên.
- Tổng chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế: Chính là vua Gia Long và vua Minh Mạng.
Kết luận
Kênh Vĩnh Tế, sông Thoại Hà, núi Thoại Sơn… là những công trình vĩ đại, minh chứng cho tầm nhìn chiến lược và công lao to lớn của Thoại Ngọc Hầu trong việc khai phá và xây dựng miền Tây Nam Bộ. Việc đính chính những thông tin chưa chính xác về ông không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc mà còn là cách để tôn vinh công lao của một vị danh tướng tài ba, một nhà quản lý xuất sắc. Những bài học về lòng yêu nước, tinh thần dám nghĩ dám làm của Thoại Ngọc Hầu vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.