Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, từng chia sẻ: “Chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng, nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI mới có đổi mới”. Ý tưởng đổi mới đã manh nha từ trước đó, và dấu ấn của đồng chí Lê Duẩn, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, in đậm trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầy biến động này.
“Ông Hai trăm Bu-gi” – Ánh sáng trí tuệ
Giai đoạn đầu năm 1947, tại Đồng Tháp Mười, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng diễn ra trong bối cảnh hai phái “Tiền Phong” và “Giải Phóng” chưa thực sự đoàn kết. Đồng chí Lê Duẩn, với tư duy sắc bén và tầm nhìn chiến lược, đã chủ trì hội nghị, hợp nhất lực lượng, củng cố sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và định hướng cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ đó, biệt danh “Ông Hai trăm Bu-gi” ra đời, ví von trí tuệ sáng ngời của ông.
Đại tướng Lê Đức Anh nhớ lại những lần báo cáo tình hình chiến trường với đồng chí Lê Duẩn, và khẳng định hai điểm luôn nhất trí: quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, và tấm lòng đôn hậu, luôn hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhân dân.
Nghị quyết 15: Bước ngoặt lịch sử
Năm 1972, bối cảnh quốc tế đầy khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn, cùng Bộ Chính trị, đã đưa ra quyết định giải phóng miền Nam, một quyết định thể hiện trí tuệ và tầm nhìn xa trông rộng.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Đồng chí Lê Duẩn báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình cách mạng miền Nam (1957). Ảnh tư liệu: Báo Nhân dân.
Cuối những năm 1950, đầu những năm 1960, xu hướng “thi đua hòa bình” đang lan rộng trong phong trào cộng sản quốc tế, cùng với sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc, đã tạo nên những khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 15 ra đời, đánh dấu bước chuyển chiến lược từ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang. Nghị quyết này thể hiện đường lối độc lập, tự chủ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân miền Nam.
Việt Nam và hai “người anh lớn”
Đại tá Khuất Biên Hòa kể lại câu chuyện về hai đồng chí Phạm Văn Xô và Phan Văn Đáng được cử ra Bắc dự Hội nghị Trung ương 15 mở rộng. Họ đã chờ đợi rất lâu và cuối cùng chỉ được thảo luận ở tổ về tinh thần “Thi đua hòa bình”. Trước khi trở về Nam, Hồ Chủ tịch đã căn dặn: “Miền Nam ở xa, Xứ ủy Nam Bộ phải chịu trách nhiệm với Trung ương. Cách mạng phải sáng tạo. Kiên quyết không để Mỹ-Diệm tiêu diệt cách mạng miền Nam.” Lúc bấy giờ, Liên Xô và Trung Quốc đều không ủng hộ đấu tranh vũ trang. Đồng chí Lê Duẩn, bằng tài năng ngoại giao, đã thuyết phục hai nước ủng hộ Việt Nam, Liên Xô viện trợ cho miền Bắc, Trung Quốc viện trợ cho miền Nam.
Chớp thời cơ, giải phóng miền Nam
Sau Hiệp định Paris, đồng chí Lê Duẩn nhận định rõ ràng về tình hình quân lực của địch và quyết tâm chớp thời cơ giải phóng miền Nam. Ông chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch quân sự và tổ chức lực lượng tại chỗ trong các đô thị.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Tổng Bí thư Lê Duẩn (đứng thứ 6 từ phải sang) và đồng chí Lê Đức Anh (đứng ngoài cùng bên phải) cùng các đồng chí lãnh đạo cao cấp tại Hội nghị tổng kết Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam – thống nhất đất nước (Đà Lạt 1975). Ảnh tư liệu/ CAND
Đại thắng mùa Xuân 1975 đã chứng minh tầm nhìn chiến lược của ông. Đồng chí Lê Duẩn đã góp phần quan trọng đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió.
Đổi mới kinh tế – Hạt giống từ Đại hội V
Sau giải phóng, đất nước đối mặt với muôn vàn khó khăn: tỷ lệ thương tật cao, hậu quả chiến tranh nặng nề, cấm vận, khủng hoảng kinh tế. Tại Đại hội V, đồng chí Lê Duẩn đã phê phán “chủ quan nóng vội” và “bảo thủ, trì trệ”, quyết định đổi mới chế độ quản lý, xóa bỏ cơ chế bao cấp. Tư duy đổi mới đã xuất hiện từ trước thềm Đại hội V. Từ “khoán hộ” đến “khoán chui”, “khoán sản”, rồi “Chỉ thị 100” và “Nghị quyết Khoán 10”, sức sản xuất được giải phóng, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng lương thực. Đại hội VI là mốc son, nhưng hạt giống đổi mới đã được gieo từ trước đó.
Tấm lòng với Bác Hồ
Câu chuyện về việc giữ thi hài Bác Hồ tại Việt Nam thể hiện tấm lòng của đồng chí Lê Duẩn đối với Bác và với nhân dân. Ông đã khéo léo thuyết phục Liên Xô giúp đỡ, để nhân dân Việt Nam mãi mãi được tưởng nhớ Bác.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc Điếu văn tại Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh (9/9/1969). Ảnh tư liệu/ Hochiminh.vn
Đồng chí Lê Duẩn là nhà lãnh đạo lỗi lạc, hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình. Tư duy sáng tạo, phẩm chất lớn lao, và tấm lòng với dân tộc của ông mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo.