Nằm ẩn mình giữa những cánh đồng xanh mướt của vùng đất Tiên Du, Bắc Ninh, núi Lim hiện lên với vẻ đẹp thanh tĩnh, trầm mặc. Dù không mang dáng vẻ kỳ vĩ, nhưng chính những lớp lớp lăng tẩm, chùa chiền cổ kính xen lẫn đất đá lại tạo nên nét thâm u, linh thiêng cho vùng đất này. Dưới chân núi, dòng sông Tiêu Tương lững lờ trôi, như lời tự sự miên man về những câu chuyện lịch sử và huyền thoại. Nơi đây, thấp thoáng bóng hình chàng Trương Chi si tình và nàng Mỵ Nương xinh đẹp, để lại trong lòng người nỗi niềm tiếc nuối, bâng khuâng khó tả.
Nội dung
Núi Lim và sông Tiêu Tương không chỉ là chứng nhân lịch sử, mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của vùng Kinh Bắc. Nổi bật trong số đó là hội Lim – một lễ hội truyền thống độc đáo, mang đậm dấu ấn văn hóa dân gian, thu hút đông đảo du khách thập phương.
Nguồn Gốc Của Hội Lim: Từ Lễ Tế Thần Tới Hội Chùa
Hội Lim ngày nay thường được biết đến là lễ hội chùa, diễn ra vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch, ba năm một lần. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, hội Lim có nguồn gốc từ hội đình – hội hàng tổng Nội Duệ, kéo dài suốt 7 ngày, từ mồng 9 đến 16 tháng Giêng. Chính vì nằm trong chuỗi hoạt động sôi nổi của hội đình nên ngày nay, nhiều người lầm tưởng hội Lim được tổ chức thường niên.
Vào thế kỷ 18, tổng Nội Duệ là vùng đất phồn thịnh, là nơi giao thương của nhiều thuyền bè, buôn bán tấp nập. Nơi đây vốn nổi tiếng với truyền thống hiếu học và là cái nôi của nhiều nhân tài cho đất nước. Người dân Nội Duệ cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất, đồng thời cũng rất coi trọng đời sống văn hóa tinh thần. Trong những ngày đầu xuân năm mới, hội đình – hội hàng tổng được tổ chức nhằm tưởng nhớ các vị thành hoàng làng, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, quốc thái dân an.
Sự Hình Thành Lễ Hội Độc Đáo
Hội đình Nội Duệ ban đầu là lễ hội tế thần, kết hợp với các hoạt động văn hóa, giải trí dân gian như hát cửa đình, diễn xướng… Vào đầu thế kỷ 18, Quận công Đỗ Nguyễn Thụy, một người con của quê hương Nội Duệ đã có công lớn trong việc quy củ, tổ chức lễ hội bài bản, quy mô hơn. Ông đã dành ra nhiều ruộng đất và tiền bạc để xây dựng cơ sở vật chất, ban hành lệ làng, quy định rõ ràng về nghi lễ, nội dung và thời gian diễn ra lễ hội.
Theo đó, lễ hội được tổ chức vào trung tuần tháng 8 âm lịch, với nhiều hoạt động đặc sắc như rước kiệu, tế lễ, hát cửa đình, múa rối… Đặc biệt, sự tham gia của giáo phường Tiên Du với những làn điệu hát văn, hát chầu văn đã góp phần tạo nên không khí trang nghiêm, linh thiêng cho lễ hội.
Bên cạnh đó, làng Lũng Giang (hay còn gọi là làng Cầu Lim) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên hội Lim. Nơi đây được xem là cái nôi của nghệ thuật Quan họ – một loại hình dân ca đặc sắc của vùng Kinh Bắc. Trong những ngày diễn ra lễ hội, các liền anh, liền chị từ các làng Quan họ tụ hội về đây, hát giao duyên, tạo nên không khí sôi nổi, hấp dẫn.
Từ Hội Đình Đến Hội Lim: Dấu Ấn Của Những Danh Nhân
Đến thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, hội đình Nội Duệ tiếp tục có những thay đổi quan trọng. Năm 1772, Nguyễn Đình Diễn, một vị quan dưới triều Lê – Trịnh, quê ở Nội Duệ, đã hiến nhiều ruộng đất cho làng, đồng thời vận động chuyển lễ hội từ tháng 8 sang tháng Giêng âm lịch. Sau này, bà Mụ Ả, một người phụ nữ giàu có, sống ở Nội Duệ Nam đã bỏ tiền mua đất, xây dựng chùa Hồng Ân trên núi Lim. Bà cũng là người đề xuất tổ chức hội chùa vào ngày 13 tháng Giêng, ba năm một lần, gắn liền với lễ hội hàng tổng.
Từ đó, hội Lim chính thức được hình thành, là sự kết hợp hài hòa giữa hội đình (tế thần) và hội chùa (lễ Phật). Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa tâm linh, mà còn là dịp để người dân tưởng nhớ công ơn của các vị thành hoàng làng, các vị danh nhân có công với quê hương, đất nước.
Hội Lim Ngày Nay: Nỗ Lực Bảo Tồn Và Phát Huy
Trải qua nhiều biến động lịch sử, hội Lim vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống, trở thành biểu tượng văn hóa đặc sắc của vùng Kinh Bắc. Ngày nay, hội Lim được tổ chức bài bản, quy mô hơn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Bên cạnh các nghi lễ truyền thống như rước kiệu, tế lễ, dâng hương, hội Lim ngày nay còn có nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc khác như hát Quan họ trên thuyền, thi dệt cửi, nấu cơm thi, đấu vật, cờ người…
Đặc biệt, không gian văn hóa Quan họ được tái hiện một cách sinh động, với những làn điệu trữ tình, đằm thắm, thể hiện tâm hồn, tình cảm của người dân Kinh Bắc.
Hội Lim không chỉ là dịp để người dân địa phương và du khách thập phương du xuân, trẩy hội, mà còn là dịp để giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa cho thế hệ trẻ, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.