Sơ lược về người Hoa
Theo kết quả điều tra dân số mới nhất (1/4/2019), người Hoa có dân số 749.466 người, đứng thứ 9 theo xếp hạng dân số các dân tộc Việt Nam, từ năm 2000 đến nay, dân số dân tộc Hoa có xu hướng giảm. Khu vực sinh sống chủ yếu tập trung tại phía Nam như TP. HCM, Đồng Nai, Tiền Giang,… Một số ít hơn thì phân bố ở Quảng Ninh, Bắc Giang, các tỉnh biên giới phía Bắc.
Nội dung
2. Lịch sử di cư của người Hoa ở Việt Nam
Có các đợt di cư lớn được tạm thống kê theo 4 giai đoạn như sau:
– Người Trung Quốc di cư vào Việt Nam kể từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, từ đầu thời kỳ Bắc thuộc.
– Vào thế kỷ XVII tại Trung Quốc, sự sụp đổ của nhà Nam Minh dẫn đến làn sóng người Hoa trung thành với nhà Minh và không thần phục nhà Thanh bỏ quê hương di dân sang vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam bằng con đường biển nên họ được dân miền Nam Việt Nam bản địa gọi là người Tàu.
– Đến thế kỷ XIX, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Thời kì này người Hoa sang Việt Nam theo các đợt tuyển mộ phu đồn điền của người Pháp.
– Khoảng thời gian từ 1939-1945, có một số lượng người Hoa từ Quảng Đông chạy sang Việt Nam lánh nạn khi đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Trung Hoa. Năm 1949, lại thêm một số người Hoa chạy sang Việt Nam khi Quốc dân Đảng thua ở lục địa.
Ngoài ra, rất nhiều đợt di cư nhỏ lẻ diễn ra trong suốt 2000 năm do những biến cố bên trong Trung Quốc, người Hoa di cư sang để tránh chiến tranh, thanh trừng của triều đình mới hoặc phản loạn, tù binh bỏ trốn triều đình, tù binh bị bắt được sau những lần chiến tranh xâm lược các triều đình Việt Nam, họ không hồi hương mà ở lại Việt Nam, lấy vợ Việt Nam và dần bị đồng hoá, v…v… Ngoài ra, một phần thương nhân người Hoa đến kinh doanh buôn bán cũng định cư lại, tạo nên những cộng đồng người Hoa đông đảo.
Tại Việt Nam có bốn trung tâm thương mại nổi tiếng mà ở đó người Hoa đã đóng vai trò trung tâm trong hoạt động thương mại, đó là đô thị thương mại Vân Đồn thế kỷ XV, đô thị Phố Hiến thế kỷ XVI, đô thị Hội An thế kỷ XVII và Sài Gòn – Chợ Lớn thế kỷ XVIII, XIX. Trong đó các đô thị Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An, vai trò người Hoa chỉ nổi lên trong một thời gian rồi suy yếu cùng với sự suy tàn của các đô thị này. Nhưng ở Sài Gòn – Chợ Lớn vai trò hoạt động thương mại của người Hoa vẫn trường tồn theo năm tháng và ngày càng phát triển từ đô thị thương mại trong thế kỷ XVIII đến nay để trở thành một thành phố thương mại sầm uất nhất.
Có một nhân vật nổi lên vào giai đoạn 1655 – 1730, đó là Mạc Cửu, một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVIII ở Việt Nam, một người góp công không nhỏ trong việc khai phá vùng đất hoang vu trở thành lãnh thổ của Việt Nam sau này, ông cũng thúc đẩy một phần lớn người Hoa di cư sang và định cư tại đây, phần này mình sẽ đề cập đến một bài viết “Vai trò của người Hoa trong lịch sử Việt Nam“.
3. Thăng trầm của người Hoa
Người Hoa rất giỏi trong làm ăn buôn bán, tuy nhiên, tính cộng đồng của họ rất cao và một trong số đó sẵn sàng làm tay trong trong các cuộc xâm lược của Triều đình phương Bắc đối với Đại Việt, chính vì vậy, các vua chúa và người dân Việt Nam luôn có cái nhìn cẩn trọng, dè chừng với người Hoa, trong những giai đoạn quan hệ xấu nhất giữa hai triều đình Trung Quốc và Việt Nam, không thiếu những vụ thảm sát người Hoa đẫm máu xảy ra, tiêu biểu nhất là vụ 10 ngàn người Hoa vùng cù lao Phố bị quân đội Tây Sơn tàn sát vào thế kỷ XVIII.
Giai đoạn này khá phức tạp nên sơ bộ là vậy, ta bắt đầu tiến gần hơn tới thời hiện đại:
– Giai đoạn trước năm 1945, chính quyền thuộc địa Pháp giành độc quyền buôn bán 3 mặt hàng quan trọng nhất là gạo, muối và rượu. Đặc biệt là thuốc phiện được Pháp công khai buôn bán, khuyến khích người Việt sử dụng chứ không bị cấm như ở chính quốc. Lợi nhuận từ thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Pháp Đông Dương. Tổng ngân sách năm 1905 là 32 triệu đồng Đông Dương, trong số này nguồn thu từ độc quyền bán thuốc phiện là 8,1 triệu.
Tính đến năm 1900 thì lợi nhuận Pháp thu được từ thuốc phiện đạt hơn phân nửa số tiền thu nhập của toàn Liên bang Đông Dương. Việc phân phối bán lẻ thuốc phiện được Pháp dành cho tư nhân, đa số là người Hoa, người Hoa thu được những món lợi lớn từ việc buôn thuốc phiện cho Pháp trong thời kỳ này, từ đó tạo nguồn lực cho việc họ khống chế kinh tế miền Nam cho tới thập niên 1980.
– Giai đoạn 1945 – 1950: Từ trước năm 1949, người Hoa ở Việt Nam vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc, chính phủ Trung Hoa Dân quốc tuyên bố rằng tất cả người Hoa ở nước ngoài đều là công dân Trung Quốc, rằng Trung Quốc có quyền ngoài lãnh thổ, quyền can thiệp vào các quốc gia khác để bảo vệ công dân của mình. Đến thập kỉ 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới chính thức thu hồi lời tuyên bố trên.
– Giai đoạn 1950-1975 tại miền Bắc, hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thống nhất rằng người Hoa ở Việt Nam do chính quyền Việt Nam quản lý và được hưởng đầy đủ quyền lợi của công dân Việt Nam, quá trình bỏ dần quốc tịch Trung Quốc để thành công dân chính thức của Việt Nam sẽ kéo dài nhiều năm.
Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, người Hoa ở miền Bắc được hưởng tất cả các quyền của công dân Việt Nam, kể cả quyền bầu cử, nhưng lại không phải chịu nghĩa vụ quân sự. Thập kỉ 1960, do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc khi một số người Hoa bắt đầu các hoạt động “Hồng Vệ binh” của mình và tố cáo Việt Nam theo “chủ nghĩa xét lại“, áp lực của chính quyền tăng lên đối với việc chuyển đổi quốc tịch của người Hoa sang quốc tịch Việt Nam.
Năm 1970, để giảm khả năng thao túng tiềm tàng của Trung Quốc đối với người Hoa, chính phủ bắt đầu giảm các bài học lịch sử và ngôn ngữ tại các trường học của người Hoa. Từ vài năm trước đó, các biển hiệu bằng tiếng Trung bắt đầu biến mất tại các thành phố Hà Nội và Hải Phòng.
– Cũng giai đoạn này tại miền Nam, từ đầu thế kỷ XX, Thiên Địa hội đã phát triển khá mạnh ở thành thị và thôn quê 6 tỉnh Nam Kỳ, nơi tiếp nhận rất nhiều Hoa kiều sang làm ăn mua bán (mặt hàng nông sản, lúa gạo). Xu thế này vẫn tiếp diễn trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và chế độ cũ trước năm 1975.
Các hoạt động ngầm của giới tội phạm gốc Hoa tại Việt Nam có liên hệ chặt chẽ với hội Tam Hoàng tại Hồng Kông, Đài Loan. Những hoạt động bất hợp pháp như tổ chức cờ bạc, mại dâm, bảo kê, cho thuê nặng lãi, buôn bán thuốc phiện,… diễn ra bán công khai và được chính quyền thời bấy giờ nhắm mắt cho qua vì những khoản tiền khổng lồ mà các tổ chức này nộp về chính quyền qua những thỏa thuận ngầm.
Khu Chợ Lớn từng là địa bàn cát cứ hoạt động rất mạnh của giới xã hội đen gốc Hoa và là một điểm nóng trong các địa bàn hoạt động mạnh của Hội Tam Hoàng Trung Hoa tại Đông Nam Á được sự bảo trợ của Bảy Viễn. Họ thậm chí còn mua chuộc được một số tướng lĩnh, quận trưởng, tỉnh trưởng của chế độ cũ để có thể giành được những hợp đồng đầu tư. Thực tế hội Tam Hoàng Trung Hoa đã bén rễ rất sâu và phức tạp vào xã hội và kinh tế miền Nam trước 1975.
Thời gian này, chế độ Sài Gòn đã đi vào vết xe đổ của các nước Đông Nam Á. Khác với người Hoa ở miền Bắc,người Hoa ở miền Nam đã tụ lại, tạo thành một khối đoàn kết, một xã hội thu nhỏ, dần dần lớn mạnh và kiểm soát hầu hết các hoạt động kinh tế, văn hoá, họ dùng tiền mua chuộc quan chức, tự động can thiệp và giải quyết mọi vấn đề không qua chính quyền sở tại. Họ lớn mạnh vượt quá sự kiểm soát của chính quyền dẫn đến thâu tóm hoàn toàn kinh tế miền Nam trước năm 1975.
Sự ảnh hưởng của người Hoa có thể nhìn nhận qua những con số sau đây (số liệu năm 1973):
Tại Sài Gòn có 36 rạp chiếu bóng thì người Hoa nắm 17 rạp, 25 trong tổng số 30 nhà nhập khẩu phim truyện của nước ngoài là Hoa, trong tổng số 31 ngân hàng hoạt động ở miền Nam trước năm 1975, Đài Loan có 3, 7 ngân hàng khác là của người Hoa mang quốc tịch Việt, ước lượng hàng năm các ngân hàng của người Hoa chiếm khoảng 80% tổng số tín dụng dành cho thương mại.
Người Hoa làm chủ 42 trong tổng số 60 công ty có doanh số hàng năm trên 100 triệu đồng tiền cũ, đại bộ phận lượng thóc gạo lưu thông ở miền Nam về cơ bản nằm trong tay tư sản Hoa kiều hoặc người Việt gốc Hoa, đội thuyền buôn theo kiểm kê năm 1972 có 35 chiếc trọng tải từ 650 – 2.500 tấn, trong đó gần một nửa thuộc sở hữu tư nhân hoặc do tư nhân thuê của nước ngoài, tư nhân ở đây cũng toàn là người Hoa.
Độc quyền vận tải cũng là phương sách để người Hoa ngầm khống chế thị trường. Người Hoa không bao giờ chở hàng của người Việt, nếu có mặt hàng đó cùng loại với hàng hóa do người gốc Hoa sản xuất. Nói cách khác, hệ thống vận chuyển và phân phối của người Hoa chỉ phục vụ lợi ích của người Hoa. Hàng do người Việt sản xuất nếu bị hệ thống vận tải độc quyền của người Hoa từ chối lưu thông thì sẽ tồn ứ ở trong kho, doanh nghiệp chỉ chờ phá sản.
Cuối năm 1973, kiểm kê cho biết, trong số gần 10.000 xí nghiệp lớn nhỏ được kiểm kê, 80% là tài sản của tư sản gốc Hoa. Hai công ty nhập khẩu và chế biến bột mì lớn nhất là Sakybomi và Viflomico cung ứng 60% nhu cầu bột mì cho toàn miền, thì tư sản người Hoa làm chủ cả hai, ngoài ra họ còn làm chủ luôn 10 công ty nhỏ khác thuộc ngành này. Họ chiếm 90% số vốn của năm công ty và 182 cơ sở sản xuất mì gói, công ty sản xuất mạch nha duy nhất với số vốn 200 triệu đồng là của tư sản người Hoa.
Với sự góp vốn của Đài Loan, họ kiểm soát hoàn toàn 4 công ty sản xuất bột ngọt, 30 trong tổng số 40 cơ sở sản xuất rượu ở miền Nam là của người Hoa. Ngoài ra, họ giữ 60% vốn của 14 công ty khai thác hải sản. Sài Gòn có 4 công ty dệt lớn là Sicovina, Vimytex, Vinatexco và Vinatefinco, thì ba công ty sau là của tư sản người Hoa, chiếm khoảng 70% sản lượng toàn ngành.
Trong công nghiệp hóa chất, tư sản người Hoa là chủ của 14 trong tổng số 17 công ty. 55% vốn của các cơ sở sản xuất đệm mút, giày dép, đồ dùng bằng cao su; 50% vốn của các ngành sản xuất nến, diêm, phấn viết,… là của người Hoa. Họ tổ chức 4 trong tổng số 5 công ty luyện kim. 60% vốn của khoảng 100 xưởng đúc gang, làm đinh,… do tư sản người Hoa kiểm soát.
Về sản phẩm cơ khí, đồ dùng điện và điện tử, tư sản người Hoa nắm từ 60 – 70% tổng số vốn, rải ra trên hàng trăm cơ sở. Người Hoa chiếm khoảng 50% doanh số bán lẻ của toàn miền Nam, về bán buôn thì tư sản người Hoa gần như nắm độc quyền. Tư sản người Hoa cũng làm chủ khoảng một nửa số khách sạn lớn và 90% số khách sạn nhỏ, nhà trọ ở vùng Sài Gòn.
Có đủ căn cứ để cho rằng tổng số các nghiệp vụ tín dụng công khai hoặc ngấm ngầm của giới tư sản ngân hàng Hoa Kiều ở miền Nam trước năm 1975 là không dưới 150 tỷ đồng Sài Gòn cũ, trong đó khoảng 100 tỷ được dùng vào việc thu mua lúa gạo. Số tiền đó bằng 1/3 tổng số tiền lưu hành ở miền Nam thời đó, nên rất dễ hiểu tại sao một nhóm nhỏ người Hoa giàu có lại có thể thao túng nền kinh tế.
Trong khi ở miền Bắc, Hoa kiều không đóng vai trò đặc biệt trong nền kinh tế nhà nước quản lý tập trung, thì ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng.
Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.
Nhận thấy tầm ảnh hưởng quá lớn và tiềm tàng nguy cơ khi để người Hoa lũng đoạn thâu tóm miền Nam, chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng có một số hoạt động mạnh tay nhằm kiềm chế thế lực người Hoa như: Đề ra chính sách buộc tất cả người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc bị trục xuất, yêu cầu tất cả người Hoa phải lấy tên tiếng Việt trong thời hạn 6 tháng, cấm người nước ngoài hoạt động trong 11 ngành nghề, kể cả buôn gạo và bán hàng tạp hóa, những ngành mà người Hoa chiếm ưu thế.
Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng bắt các trường học của người Hoa trong vùng Sài Gòn − Chợ Lớn phải dùng tiếng Việt trong giảng dạy và bổ nhiệm Hiệu trưởng người Việt Nam.
Tất nhiên, với vị thế quá lớn của người Hoa, cộng thêm sự hậu thuẫn của Bắc Kinh, những chính sách trên trở nên quá muộn màng và không hiệu quả, thậm trí còn phản tác dụng, người Hoa xuống đường gây bạo động, phản đối chính sách của Ngô Đình Diệm.
Đến mùa hè 1957, người Hoa đóng cửa gần hết trường học, hoạt động thương mại, và rút tiền ra khỏi ngân hàng. Khoảng 800 triệu đến 1,5 tỉ đồng, chiếm gần 17% tiền tệ đang lưu hành ở miền Nam biến mất khỏi thị trường, thương mại ngưng trệ. Đến khoảng giữa tháng 5/1957, có khoảng 6.000 cửa hàng của người Hoa đã đóng cửa, 200.000 người mất công ăn việc làm. Hoa kiều còn phản đối bằng việc ngừng vận tải hàng hóa (các hãng vận tải lớn đều do họ nắm giữ).
Với sự hỗ trợ của giới buôn lớn, chủ ngân hàng Hoa kiều ở Đông Nam Á và chính quyền Đài Loan, người Hoa nhất loạt đình chỉ hoạt động, tẩy chay không bốc dỡ gạo Việt Nam đã cập bến cảng nước ngoài. Do ngừng mọi vận chuyển, nông sản ứ đọng ở vùng quê, trong khi Sài Gòn – Chợ Lớn lại rất khan hiếm. Nền kinh tế miền Nam Việt Nam gần như sụp đổ.
Kết quả, chính quyền VNCH buộc phải nới lỏng một số chính sách nhằm xoa dịu làn sóng phẫn nộ của người Hoa cũng như cứu vớt nền kinh tế đang tê liệt của mình.
Có thể kết luận rằng, ở miền Nam, người Hoa trong thời gian này như một vùng tự trị trong lòng chế độ Sài Gòn, lúc chiến tranh leo thang, người Hoa đã góp phần không nhỏ vào tình trạng tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, trốn quân dịch, gây bất ổn định chính trị trong xã hội miền Nam thời đó.
Sau ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, người Hoa chiếm khoảng 4% dân số Việt Nam, trong đó có hơn 1,5 triệu Hoa kiều sinh sống chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn, và chỉ có khoảng 300.000 người Việt gốc Hoa sống ở miền Bắc. Vấn đề người Hoa càng trầm trọng hơn khiến nhà nước không thể ngồi yên.
Người Hoa thể hiện rõ sự chống đối chính quyền, họ treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn, làm chính phủ Việt Nam nghi ngờ lòng trung thành của họ. Tháng 1 năm 1976, chính phủ lệnh cho người Hoa ở miền Nam đăng ký quốc tịch. Đa số đăng ký là quốc tịch Trung Quốc mặc dù họ đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam từ những năm 1956-1957.
Chính quyền Việt Nam đã làm triệt để và thực hiện các chính sách từ rất sớm chứ không để “nước đến chân mới nhảy” như chế độ cũ, những người vẫn tiếp tục đăng ký là quốc tịch Trung Quốc sau đó bị mất việc và giảm tiêu chuẩn lương thực. Cuối năm đó, tất cả các tờ báo tiếng Trung bị đóng cửa, tiếp theo là các trường học của người Hoa. Với những hành động này, chính phủ Việt Nam đã lờ đi thỏa thuận rằng sau khi thống nhất sẽ tham khảo ý kiến của Trung Quốc về vấn đề người Hoa ở Việt Nam.
Chính sách của Việt Nam năm 1976 (đánh tư sản những người Hoa và tịch thu tài sản của họ) đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản.
Năm 1977, diễn biến lịch sử có nhiều phức tạp, lạm phát 80%, tình hình chiến sự biến giới Tây Nam căng thẳng, trong nước thì người Hoa chống đối biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc, chính phủ Việt Nam đã thi hành những chính sách mạnh tay với người Hoa, trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế.
Chính quyền cũng tiếp quản cơ sở tổng hội quán người Hoa, bệnh viện Sùng Chính (đầu năm 1976) và 5 bệnh viện khác của 5 bang vào tháng Giêng 1978, đóng cửa 11 tờ báo Hoa ngữ. Khối lãnh đạo người Hoa ở Việt Nam xem như không còn hiện hữu, và việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp bị xóa bỏ, vị thế người Hoa tồn tại mấy chục năm bị sụp đổ trong thời gian ngắn.
Cùng thời điểm quan hệ Việt – Trung xấu đi, cộng thêm những chính sách mạnh tay từ chính quyền, người Hoa lần lượt rời Việt Nam, khởi đầu là những vụ di cư nhỏ lẻ, sau đó là trào lưu ồ ạt người di tản đi đến những bờ biển của các nước láng giềng. Kết quả là số người di tản từ Việt Nam tăng gấp đôi trong 6 tháng đầu năm 1979, trong những người di tản trong những năm 1978-1979, Hoa kiều chiếm đa số.
Cộng thêm vào đó là khoảng 250.000 Hoa kiều sang Trung Quốc qua biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Trung Quốc đã gọi đây là vấn đề “nạn kiều“. Đến năm 1982, do khó khăn kinh tế và quan hệ chính trị thù địch giữa Việt Nam với Trung Quốc, người Hoa ở miền Nam đã vượt biên qua đường biển, đường bộ để trốn qua nước thứ ba. Khoảng 2/3 trong số nửa triệu người vượt biên từ Việt Nam là người gốc Hoa.
Đến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và các phong tục, ngôn ngữ gốc Hoa của họ về mặt hình thức không còn phổ biến như trước, đây là một khác biệt hoàn toàn với những nước Đông Nam Á khác.
Người gốc Hoa về mặt cư trú, ngôn ngữ, giáo dục… đã gần như bị đồng hóa bởi người Việt Nam. Về mặt hình thức dù họ vẫn giữ một số phong tục tập quán của tổ tiên mình nhưng rấ khó phân biệt được tính cách người Hoa ở Việt Nam và người Việt. Mặc dù người Việt có thể phản đối hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông hoặc các chính sách của chính quyền Trung Quốc, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù những gia đình người gốc Hoa ở địa phương họ sinh sống.
Sau khi thực thi chính sách “Đổi Mới” vào năm 1986, sự kỳ thị chống người Hoa đã giảm rõ rệt, và kéo theo đó là chính sách khoan hòa với người Hoa để giảm xung đột với Trung Quốc. Đi kèm theo đó, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chính sách hỗ trợ và đảm bảo văn hóa của người Hoa tại Việt Nam được giữ gìn.
Cùng với đó, người Hoa cũng dần lấy lại một số ảnh hưởng kinh tế ở Việt Nam. Về mặt tư tưởng nhận thức, cho đến cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, người gốc Hoa đã hòa nhập sâu sắc vào xã hội Việt Nam đến mức họ tự xem mình là người Việt Nam và mang gốc gác văn hóa thuộc dân tộc Hoa (được công nhận trong 54 dân tộc Việt Nam), chứ không phải là Hoa kiều sinh sống trên nước Việt Nam.
Và về mặt tâm lý tình cảm, đại đa số bộ phận người Việt gốc Hoa có khuynh hướng ủng hộ lập trường và quan điểm của phía chính phủ Việt Nam hơn trong việc xử lý các sự vụ bất đồng – tranh chấp (nếu có phát sinh, với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa), một số ít ỏi người Việt gốc Hoa khác (trong đó đa phần là người lớn tuổi) thì có thái độ trung lập ôn hòa và không thể hiện ý kiến trong các sự vụ kiểu này.
4. Văn hóa người Hoa ở Việt Nam và quá trình hoà nhập vào văn hoá Việt Nam
Đa phần người gốc Hoa thế hệ sau này ở Việt Nam đã có thể giao tiếp và sử dụng tiếng Việt một cách khá hoàn chỉnh và trôi chảy, thậm trí một bộ phận thế hệ người Hoa mới hoàn toàn không biết tiếng Hoa. Một phần nguyên nhân có thể thấy qua sự cố gắng của chính quyền trong việc quảng bá và cập nhật ngôn ngữ tiếng Việt đối với cộng đồng người gốc Hoa.
Tuy nhiên việc người Hoa hoà nhập hoàn toàn vào văn hoá Việt Nam cũng không hẳn là do sức ép của chính phủ, mà chủ yếu do hoàn cảnh. Chính phủ hiện nay luôn có những chủ trương, chính sách hỗ trợ người Hoa bảo tồn nhiều nét văn hoá, ngôn ngữ, nên văn hóa người Hoa ở Việt Nam vẫn có những nét độc đáo, khác biệt. Chưa kể những tương đồng về văn Hoá khiến dân tộc Hoa hoà nhập quá dễ dàng vào văn hoá Việt Nam dẫn đến nhiều hiểu lầm rằng chính phủ đang cố gắng đồng hoá người Hoa.
Tuy nhiên một điều đáng mừng là phần lớn người Hoa hiện nay đã coi mình là một dân tộc trong 54 dân tộc anh em, nhiều người đã có những hoạt động đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của đất nước.
5. Thông tin ngoài lề – Những người Hoa nổi tiếng
– Tờ báo “Sài Gòn giải phóng” có phiên bản Hoa.
– Đài tiếng nói Nhân dân TPHCM có bản tin phát bằng tiếng Quảng Đông và Quan Thoại.
– Một số người dân tộc Hoa nổi tiếng: MC Trấn Thành, Ca sĩ Thuỷ Tiên, Lương Bích Hữu, Tăng Thanh Hà, Ông Cao Thắng, VĐV Lý Đức,…
Về kinh doanh thì có Lý Siêng – doanh nhân – người sáng lập – tổng Giám đốc công ty TNHH Nhơn Hoà (Cân Nhơn Hoà đó), Vưu Khải Thành – doanh nhân – người sáng lập và chủ tịch hội đồng thành viên công ty TNHH Bình Tiên (Biti’s nè), Trần Kim Thành – doanh nhân – người sáng lập kiêm chủ tịch HĐQT công ty cổ phần Kinh Đô (bánh kẹo Kinh Đô í), Cô Gia Thọ – doanh nhân, chủ tịch HĐQT công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long (bút bi Thiên Long, quá quen rồi nhờ), Trương Mỹ Lan – doanh nhân – chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát, …
Kết lại, người Hoa hay Kinh thì đều là anh em và sống trên mảnh đất Việt Nam, 54 dân tộc anh em chúng ta phải đoàn kết!!!