Năm 1789, khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Nguyễn Du đang trên đất Trung Hoa, bái yết mộ thi thánh Đỗ Phủ tại Lỗi Dương. Giữa bối cảnh đất nước của Nguyễn Du vừa trải qua binh lửa, lòng ông lại trùng xuống trước khung cảnh điêu tàn của Trung Quốc sau loạn An Lộc Sơn mà Đỗ Phủ từng trải qua. Hành trình trên đất khách bỗng chốc hóa thành cuộc đối thoại xuyên thời gian, kết nối hai tâm hồn đồng điệu, cùng sẻ chia những chiêm nghiệm về thân phận con người trong thời loạn.
Nội dung
Cổng nhà Đỗ Phủ khi xưa – Ảnh: Mai Quốc Liên
Gặp Gỡ Qua Lăng Kính Thơ Văn
Cảm xúc của Nguyễn Du trước mộ Đỗ Phủ được thể hiện rõ nét qua hai bài thơ khắc tại Lỗi Dương:
Bài I
Văn chương nghìn thuở, thầy nghìn năm,
Khâm phục trọn đời kính một lòng.
Tùng bách Lỗi Dương đâu đó nhỉ,
Đêm thu rồng cá nhớ đau lòng,
Chẳng sống chung thời mà nhỏ lệ,
Há vì nghèo khổ bởi thơ văn.
Lắc đầu chứng ấy bao giờ hết,
Dưới đất đừng cho quỉ hé răng.
Bài II
Khi đọc “mũ nho lụy tấm thân”,
Là lần thương khóc Đỗ Thiếu Lăng.
Văn chương ngời sáng dùng chi nhỉ ?
Nam nữ khóc than xót nỗi lòng.
Ai cũng từng khen thầy vạn thuở,
Lẻ loi buồn khóc phận tha phương.
Tứ thu một chiếc thuyền buông lái.
Trông ngóng mây chiều đất Lỗi Dương.
Nguyễn Du tự nhận mình là “khách tha phương”, một mình một thuyền lẻ loi trước cảnh vật Lỗi Dương, nơi thi hài Đỗ Phủ từng yên nghỉ. Dòng thời gian như ngưng đọng, chỉ còn lại nỗi niềm đồng cảm giữa hai tâm hồn thi sĩ, cùng xót xa cho thân phận con người bé nhỏ trước phong ba lịch sử.
Từ “Binh Xa Hành” Đến “Trở Binh Hành”: Tiếng Nói Phản Chiến Xuyên Thời Đại
Không chỉ đồng cảm với thân phận Đỗ Phủ, Nguyễn Du còn tiếp nối tinh thần phản chiến mạnh mẽ của bậc tiền bối. Nếu như “Binh Xa Hành” của Đỗ Phủ là tiếng kêu ai oán cho những người dân vô tội bị cuốn vào vòng xoáy chiến tranh, thì “Trở Binh Hành” của Nguyễn Du là lời tố cáo đanh thép tội ác của những kẻ cầm quyền, đẩy người dân vào cảnh lầm than.
Trong “Trở Binh Hành”, Nguyễn Du khắc họa chân thực bức tranh xã hội Trung Quốc hỗn loạn bởi giặc cướp, bởi nạn đói, bởi sự áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị. Hình ảnh người dân đói khổ, ly tán được Nguyễn Du miêu tả đầy ám ảnh:
Tấm cám thay cơm, canh bằng rau dại,
Tận mắt nhìn người đói chết lăn.
Giữa khung cảnh loạn lạc, những lời hứa hẹn an dân của quan lại càng trở nên giả dối, phũ phàng:
“Dân chết vì năm hạn phải đâu ta.”
Bằng ngòi bút sắc bén, Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt thật của chế độ phong kiến thối nát, nơi người dân luôn là nạn nhân của chiến tranh và sự bất công.
Nỗi Đau Của “Người Trong Cuộc”
Không chỉ là tiếng nói phản chiến, thơ văn Nguyễn Du còn thấm đẫm nỗi đau của người chứng kiến tận mắt cảnh lầm than của nhân dân. Bài thơ “Sở Kiến Hành” là một minh chứng rõ nét cho điều này. Hình ảnh người mẹ dắt díu ba đứa con đi xin ăn, nước mắt chảy ròng trên vạt áo đã trở thành một trong những khung cảnh ám ảnh nhất trong thơ Nguyễn Du:
Thiếu phụ dắt ba trẻ,
Cùng ngồi bên vĩa hè.
Trong lòng ẳm đứa nhỏ,
Đứa lớn cầm giỏ tre.
Có những gì trong giỏ,
Cám lẫn với rau đồng,
Quá trưa chưa ăn uống,
Áo quần sao rách tươm.
Qua lăng kính của Nguyễn Du, người đọc cảm nhận được nỗi đau của những số phận nhỏ bé bị chà đạp bởi chiến tranh, bởi đói nghèo.
Kết Luận
Hành trình trên đất khách của Nguyễn Du đã trở thành cuộc gặp gỡ diệu kỳ, kết nối hai tâm hồn đồng điệu qua lăng kính thơ văn. Từ Lỗi Dương đến Tín Dương, từ “Binh Xa Hành” đến “Trở Binh Hành”, Nguyễn Du đã tiếp nối tinh thần nhân văn của Đỗ Phủ, lên án chiến tranh, ca ngợi phẩm giá con người và khẳng định sức mạnh của văn chương trong việc phản ánh hiện thực và thức tỉnh lương tri.