Trong hành trình vượt ngàn dặm đường xa đến đất Bắc năm Quý Dậu (1813), Nguyễn Du – bậc thi hào kiệt xuất của văn học Việt Nam – đã ghi lại nhiều trang bút ký thấm đẫm cảm xúc về thiên nhiên, con người và những suy ngẫm sâu sắc về lịch sử. Trong số đó, bài thơ “Mộ Kỳ Lân” được sáng tác khi ông ngang qua tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, để lại nhiều dư ba trong lòng người đọc bởi sự kết hợp hài hòa giữa thi pháp tài hoa và tinh thần nhân văn cao cả.
Bài thơ mở ra với hình ảnh tấm bia đá cao sừng sững bên đường, khắc ghi dòng chữ “Mộ Kỳ Lân” đầy bí ẩn. Qua lời kể của một lão翁 bên đường, Nguyễn Du biết được rằng nơi đây từng là nấm mồ chôn cất con kỳ lân – linh vật tượng trưng cho điềm lành, báo hiệu thời thịnh trị – được vua nước Nam cống cho nhà Minh vào năm Vĩnh Lạc thứ tư (1407).
Thế nhưng, khác với sự kỳ vọng về một khu lăng mộ uy nghiêm, tráng lệ, Nguyễn Du không khỏi xót xa khi chứng kiến cảnh tượng hoang tàn, đổ nát trước mắt:
Đường cái quan phẳng bằng, chẳng gò đống mà thôi,
Chẳng đắp mộ, chẳng trồng cây cối.
Phiến đá xiêu vẹo phủ mờ rêu tối,
Gió lạnh sáng mai, mưa xối chiều tà.
Từ hình ảnh thực tại, Nguyễn Du dường như nghe thấy tiếng thở than ai oán của linh vật từ cõi u minh. Phải chăng, số phận hẩm hiu của kỳ lân cũng chính là điềm báo cho một triều đại lắm rối ren, oan khuất dưới thời Minh Thành Tổ (Chu Đệ)?
Không bằng lòng với những gì được nghe, Nguyễn Du đã dũng cảm vạch trần bản chất tàn bạo của vị vua được người đời gọi là “Vĩnh Lạc Đại Đế”. Trong những câu thơ đầy chất uất hận, ông vạch trần tội ác tày trời của Minh Thành Tổ:
Cướp ngôi cháu, tự lập vua, chẳng phải là quân tử !
Hả một cơn giận, giết người mười họ.
Giết trung thần bằng gậy lớn, vạc dầu to.
Trong năm năm, giết trên trăm vạn người ta.
Xương trắng chất núi, đất bằng ngập máu.
Để rồi, từ đó, Nguyễn Du khẳng định sự hiện diện của kỳ lân trên đất Trung Hoa vào thời điểm đó là một nghịch lý, bởi lẽ:
Lân hề, quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu vật, hà túc trân.
Trong tâm thức của người xưa, kỳ lân là linh vật cao quý, chỉ xuất hiện khi có minh quân trị vì. Việc kỳ lân chết nơi đất khách quê người, lại dưới triều đại của một bạo chúa như Minh Thành Tổ, khiến Nguyễn Du không khỏi chua xót, ngậm ngùi. Phải chăng, ngay cả thần thú cũng không thể dung thứ cho tội ác của kẻ bất nhân, và cái chết của nó chính là một lời nguyền dành cho kẻ độc ác?
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Du còn hướng về phương Nam – nơi quê hương ông, nơi có vua Lê Lợi lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho đất nước. Ông tự hỏi:
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà bất Nam du tường ?
Câu hỏi tu từ như một lời khẳng định về sự anh minh của Lê Lợi – vị vua đã mang lại thái bình thịnh trị cho Đại Việt. Đồng thời, nó cũng là lời tự hào của Nguyễn Du về truyền thống yêu chuộng hòa bình, độc lập tự do của dân tộc.
Bài thơ “Mộ Kỳ Lân” khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng mãi trong lòng người đọc. Qua hình ảnh và số phận bi thương của kỳ lân, Nguyễn Du đã bộc lộ tấm lòng yêu chuộng hòa bình, khẳng định lẽ phải, đồng thời lên án mạnh mẽ tội ác chiến tranh, bạo lực. Thông điệp ấy vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay, nhắc nhở chúng ta hãy luôn sống vì sự nghiêng minh của công lý và tinh thần nhân văn cao cả.