Nguyễn Du và thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán

nguyenhuechi03 7918e542Tác giả (áo khoác ca-rô) trong đoàn tham quan di tích Nguyễn Du năm 2005

Nguyễn Huệ Chi

Khác với Truyện Kiều là một cuốn tiểu thuyết trọn vẹn, và Văn chiêu hồn là một áng văn tế thay lời nhà Phật kêu gọi chúng sinh, thơ chữ Hán Nguyễn Du chủ yếu là những vần thơ tâm tình. Nếu Truyện KiềuVăn chiêu hồn có bao hàm tâm sự của Nguyễn Du thì cũng phải thông qua số phận khách quan của các nhân vật chính – những hình tượng nghệ thuật được kết tinh từ cuộc sống. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, trái lại, khắc họa hình ảnh trữ tình của chính Nguyễn Du, một hình ảnh rất động trước mọi biến cố của cuộc đời.

Là một nghệ sĩ vĩ đại, mỗi khi nói về mình, Nguyễn Du không phải đơn thuần chỉ biết có mình mà thôi. Trong thơ chữ Hán của ông, đằng sau hình ảnh Nguyễn Du với cõi lòng ủ ê tê tái, với cá tính rõ mồn một, một Nguyễn Du nghìn lần thực hơn so với con người chỉ biết vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện trước mặt Gia Long mà sử sách từng ghi lại, ta còn thấy một điều gì lớn hơn nữa; ấy là những suy nghĩ nung đúc của nhà thơ về con người, về xã hội, là cái nhìn phanh phui đến tận đáy những nhân cách lịch sử, cũng là sự chiêm nghiệm sâu kín và đầy trắc ẩn về những ba động thời cuộc diễn ra trước mắt ông. Có thể nói, khác với những tác phẩm khác, thơ chữ Hán Nguyễn Du là một cách Nguyễn Du đặt vấn đề trực tiếp về số phận của mình, gắn liền với vận mệnh chúng sinh trong nhiều thời đại, nhất là thời đại ông đang sống.

Nguyễn Du – chân dung một con người, một thời đại

Trước hết, hãy cùng tìm hiểu về con người Nguyễn Du. Con người này mang trong mình lý tưởng chính trị nào? Thật ra, vấn đề không đơn thuần chỉ là phân tích thái độ của Nguyễn Du đối với nhà Lê, đối với Tây Sơn, hay đối với nhà Nguyễn. Bởi lẽ ở mỗi thời điểm nhất định, Nguyễn Du lại có một cách đánh giá nhất định đối với các triều đại ấy. Nhưng xuyên qua những khuynh hướng phức tạp trong tư tưởng của nhà thơ, ta sẽ có thể rút ra một thái độ nhân sinh bao hàm trong đó những quan điểm đạo đức, lý tưởng sống, cách xử thế… của Nguyễn Du. Và điều quan trọng là cái thái độ nhân sinh này, trong điều kiện lịch sử mà Nguyễn Du sống, cũng không thể là một biểu hiện thuần nhất từ đầu đến cuối, mà chắc chắn phải có từng quá trình biến chuyển.

Thời đại của Nguyễn Du là thời đại mà những điều gọi bằng lẽ phải không hiện ra vằng vặc ở trước mắt. Đấy là một thời kỳ giằng co quyết liệt giữa nhiều xu thế chính trị khác nhau. Trong đời sống tư tưởng của xã hội, từng mảng nhỏ của hệ thống giáo lý phong kiến cơ hồ bị bung ra, bị lật xới, tạo nên không ít những cuộc khủng hoảng tinh thần. Chiến thắng ào ạt của anh em Tây Sơn, rồi sự phục thù của những thế lực đế chế con dòng cháu giống; âm vang mơ hồ của những đòi hỏi tự do và công lý xen lẫn với tâm lý đập phá, thay thầy đổi chủ, rồi việc lập trở lại một trật tự “bảo hoàng” vào bậc nhất… Tất cả những điều trái ngược đó khiến cho không khí thời đại càng thêm phức tạp, với những mảng màu phấn khởi và tuyệt vọng, lạc quan và bi quan, lẫn lộn.

Nguyễn Du vừa mới chứng kiến dinh cơ của anh trai Nguyễn Khản bị kiêu binh phá cho tan nát và phủ Chúa bị chúng hò reo vây bọc để hạ bệ Trịnh Cán, công kênh Trịnh Khải lên ngôi báu thì tiếp liền theo, đã nhận được hung tin Trịnh Khải sa cơ tự vẫn trước khí thế long trời lở đất của quân lính Tây Sơn. Và ông chưa kịp buồn thương cho tấn thảm kịch một Lý Trần Quán tự chôn mình, lại đã phải ngơ ngác dõi nhìn bước chân mau mắn đi theo “tân triều” của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích cùng vài vị Tiến sĩ khác, thêm cả người anh trai cùng mẹ của ông là Nguyễn Đề và người anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn. Trong khi ông đang xót xa tủi nhục cho tình cảnh “sẩy đàn tan nghé” của vua tôi Lê – Trịnh, thì đồng thời cũng đã được nghe vọng đến tiếng sấm chiến công của Nguyễn Huệ phá tan hai mươi vạn quân giặc ngoại xâm. Rồi cũng chính giữa lúc nhà thơ chưa kịp làm quen với sự có mặt của những con người “cờ đào áo vải” trong cương vị những chủ nhân đầy oai quyền, thì lại đã sửng sốt nhìn thấy tấn tuồng đổ vỡ của triều đại Tây Sơn mà thấp thoáng phía sau là cái mưu đồ “nằm gai nếm mật” bền chí của “Gia Long phục quốc”.

Giữa dòng thác lịch sử – khi “lẽ phải” không còn rõ ràng

Quả tình, mọi biến cố đầy kịch tính của lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX đã ập vào Nguyễn Du một cách khá dồn dập, làm cho ông như sống trong một trạng thái choáng váng về tư tưởng, và không phải dễ dàng tìm ngay được một lẽ sống, một chỗ đứng nào vững vàng ổn định. Ông là người không bao giờ hời hợt với mình, nhưng chính vì không hời hợt mà hoàn cảnh càng buộc ông không thể nghĩ những điều “đúc khuôn” vào một định kiến.

Trên đường đi sứ, khi đi qua mộ của những bậc trung thần nghĩa sĩ Trung Quốc, nhà thơ từng không ngớt tán thưởng tấm lòng trung nghĩa của họ; song chỉ cần một lúc khác phải vượt qua một khúc sông muôn phần hiểm trở, ông lại cảm thấy cái khái niệm trung nghĩa chừng như không còn đủ để cho mình tin:

Trung tín đáo đầu vô túc thị
(Ninh Minh giang chu hành)

(Giữ lòng trung tín nhưng gặp nguy vẫn không đủ tin cậy)

Cũng trên đường đi sứ ấy, Nguyễn Du vừa mới đề cao Dự Nhượng hết lòng với chủ, vừa mới bài bác Giả Nghị không hiểu được tấm lòng cô trung “liệt nữ không thờ hai chồng” của Khuất Nguyên, thì liền sau đó nhà thơ lại đã chê trách cái thái độ thiếu sáng suốt của Phạm Tăng, chỉ biết giữ lòng trung với nước Sở mà không chịu hiểu rằng “mệnh trời” đã hoàn toàn thuộc về nhà Hán. Câu thơ nói đến một Phạm Tăng trong dĩ vãng xa lắc mà sao nghe như có âm hưởng tiếng cười nhạo của thời buổi Nguyễn sơ Lê mạt:

Đa thiểu nhất tâm trung sở sự,
Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu.
(Á phủ mộ)

(Bao nhiêu kẻ hết lòng trung với người mình thờ,
Thường bị thiên hạ cười là ngu)

Trong các bài thơ của Nguyễn Du, những mâu thuẫn trên đây không phải là cá biệt mà tương đối phổ biến. Những mâu thuẫn đó có ý nghĩa gì? Phải chăng là trong con người Nguyễn Du đã luôn luôn xảy ra những cuộc xung đột – một bên là tư tưởng chính thống của nhà thơ, một bên là hiện thực chói chang, sừng sững. Nhà thơ muốn cưỡng lại hiện thực, muốn đi theo những thiên kiến chính trị của tầng lớp mình. Nhưng hiện thực cuộc đời với những sắc thái phức tạp, muôn vẻ của nó, mạnh mẽ quá, hấp dẫn quá, làm cho ông cứ phải bàng hoàng ngơ ngác, phân vân suy nghĩ, dần dần bắt tình cảm của ông phải chấp nhận ít nhiều lẽ phải của cuộc sống.

Nỗi niềm thời thế trong thơ Nguyễn Du

Thời kỳ chạy loạn về quê vợ, Nguyễn Du đã tính chuyện phù Lê chống Tây Sơn. Một đứa con của một gia đình “vọng tộc” từng nhiều đời nặng ơn trời bể với Lê – Trịnh, đối với Tây Sơn có hành động như vậy kể cũng dễ hiểu. Nhưng một điều cũng khá lạ lùng là mặc dù chống Tây Sơn, Nguyễn Du vẫn không hề lộ ra một thái độ hằn học nào đối với triều đại đó. Hình ảnh quan tướng Tây Sơn bắt gặp thoáng qua trong một lần nhà thơ ghé thăm người anh ruột ở Thăng Long vào khoảng những năm 1792-1793 được vẽ lên rất mực hào hoa phong nhã, nếu không nói là còn ẩn giấu một phần thiện cảm:

Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri bão.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
(Long thành cầm giả ca)

(Khanh tướng Tây Sơn trên tiệc đều ngất ngây,
Trắng đêm không chán cuộc vui say.
Tả hữu tranh nhau cùng gieo thưởng,
Bạc tiền như đất ném liền tay)

Và như Hoài Thanh đã nhận xét, sau này, khi chính Tây Sơn đã bị lật đổ, ta lại thấy Nguyễn Du có cái tiếng thở dài rất đỗi bùi ngùi:

Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,
Ca vũ không di nhất nhân tại.
(Long Thành cầm giả ca)

(Cơ nghiệp Tây sơn tiêu tán sạch,
Luống còn một người con hát thôi)

Có phải thực tế cuộc đời trong bao nhiêu năm, nhất là những năm làm quan buồn tẻ dưới triều nhà Nguyễn, đã lay chuyển dần tiềm thức của Nguyễn Du, làm cho ông có một cái nhìn phần nào khác trước đối với Nguyễn Huệ?

Ở đây, có một hiện tượng cũng cần lưu ý: trước chiến thắng lừng lẫy của Quang Trung chống quân Thanh xâm lược, Nguyễn Du đã không biểu lộ một sự quan tâm nào. Qua thơ Nguyễn Du, ta thấy ông rất “kín tiếng” đối với sự kiện này. Thế nhưng, cũng không phải đã hoàn toàn như vậy. Khi vấn đề vận mệnh sống còn của dân tộc tưởng như đã lắng xuống rồi thì mười mấy năm sau, có dịp đi ra khỏi đất nước, Nguyễn Du bỗng đặt lại một cách sâu sắc, tuy rằng vẫn kín đáo: ông mỉa mai rất chua cay những kẻ âm mưu hoặc trực tiếp đem quân xâm lăng Việt Nam như Mã Viện, Minh Thành Tổ. Ông hào hứng ca ngợi những nhà ái quốc nổi tiếng của Trung Hoa như Khuất Nguyên, Nhạc Phi, Cù Thức Trĩ, Văn Thiên Tường. Nhân đi qua mộ một con kỳ lân thời Minh Thành Tổ, Nguyễn Du tưởng tượng ra con kỳ lân đó vì không tìm thấy “minh chúa” nên chết đi, và ông gợi ý: “Buổi ấy sao lại không dạo chơi sang phương Nam?” (Đương thế hà bất Nam du tường? – Kỳ lân mộ). Phương Nam lúc bấy giờ, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa, đánh bại giặc Minh, mở ra trang sử độc lập chói lọi. Tuy Nguyễn Du vẫn không động đến chiến thắng của Tây Sơn, nhưng nếu không có cái hiện thực sấm sét đó trong thời đại ông thì làm gì có được những câu hỏi đầy lòng tự hào như vậy? Quả là sức mạnh của thực tế cuối cùng đã thấm vào Nguyễn Du, khiến cho tình cảm, tư tưởng của ông dù ít dù nhiều cũng phải “chuyển” theo.

Hiển nhiên, ta không thể quên rằng đời sống xã hội giai đoạn cuối Lê đầu Nguyễn vốn rất sóng gió, rất dữ dội, không phải chỉ có sáng tươi, phấn khởi một chiều. Tình cảm của Nguyễn Du cũng đã phải vật vờ trước thời cuộc, mất chỗ bấu víu, thậm chí có lúc phải lật đi lật lại. “Cõi trần trăm năm chỉ là giấc mơ mở mắt” (Trần thế bách niên khai nhãn mộng – La Phù giang thủy các độc tọa). Câu thơ đau xé ruột vì nó quá đúng đối với những ai từng trải hết mọi cảnh ngộ trớ trêu. Điều khác với lẽ thường là do phải chứng kiến “chiếc đèn cù” của dòng đời bạo liệt từ tuổi còn rất trẻ, những mặt hư vô trong tư tưởng nhà thơ không phải đợi đến già mới có đất để nảy sinh. Nguyễn Du đã không thể hiểu được vì đâu mà cơ nghiệp của những bậc anh hùng trong lịch sử và trong thời đại ông lại đổi thay như chớp mắt. Ông rùng mình:

Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh,
Như thử anh hùng thả như thử.
(Đồng Tước đài)

(Băn khoăn nghĩ ngợi thương cho kiếp phù sinh,
Anh hùng như thế mà còn như thế)

Cảm quan nhân đạo – tiếng nói cho những kiếp người long đong

Cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du chuyển sang một cấp độ mới khi nhà thơ hướng ngòi bút vào một đối tượng miêu tả khác: những con người có số phận cơ cực, hẩm hiu trong cuộc sống. Về phương diện này, thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng thống nhất với Truyện KiềuVăn chiêu hồn. Thống nhất trước hết là ở tình cảm nồng hậu của ông, hay nói một cách chữ nghĩa hơn là ở cảm quan nghệ thuật của nhà nghệ sĩ. Nguyễn Du thường rất ít khi viết những câu thơ thật kêu, ngôn từ dụng công trau chuốt. Dường như ông không chơi chữ mà sử dụng chữ chỉ để phơi trải tâm trạng. Vì thế thơ ông thật đến trong từng lời từng ý, nó tạo nên một giọng điệu cuốn hút ngay tâm trí người xem.

Mặt khác, Nguyễn Du cũng không phải là người chỉ biết thu mình lại trong những dằn vặt đau khổ cá nhân. Trên con đường gập ghềnh “bụi bay mờ mịt” của đời ông, tấm lòng nhà thơ vẫn mở ra để đón lấy mọi niềm vui nỗi buồn của con người và tạo vật quanh mình. Và hễ cứ nói đến những kiếp người long đong vất vưởng mà ông quen biết hay ngẫu nhiên bắt gặp, lời thơ của Nguyễn Du bao giờ cũng hàm chứa một yêu thương xốn xang, khiến không ai có thể dửng dưng được.

Chia tay với bạn, ông hiểu tình cảnh trơ trọi của bạn không còn người tri kỷ, mà tình cảnh của mình cũng không hơn gì thế, nên phải mượn hình ảnh mặt trăng để an ủi, làm chỗ bấu víu cho nhau:

Cao sơn lưu thủy vô nhân thức,
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?
Lưu thủ Giang Nam nhất phiến nguyệt,
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.
(Lưu biệt Nguyễn Đại lang)

(Điệu cao sơn lưu thủy còn người nào biết cho mình nữa,
Chân trời góc bể, biết nơi nào mà tìm nhau?
Đành lưu lại một mảnh trăng ở Giang Nam.
Đêm đêm thường soi lòng của hai ta).

Gặp lại một người tình trong mộng, có lẽ là người vợ đã mất ở Thái Bình mà sau khi về Hà Tĩnh mình vẫn không thôi tưởng nhớ, Nguyễn Du kể lại thật chi tiết từ nơi gặp gỡ đến hình dáng của nàng. Ông để ý ngắm nàng từng tí một: “nhan sắc vẫn như xưa/Ăn mặc thì nhiều chỗ xộc xệch”. Ông cũng nhớ rõ giọng nói nàng nghẹn trong nước mắt:

Thủy ngôn khổ bệnh hoạn,
Kế ngôn cửu biệt ly.
Đới khấp bất chung ngữ
(Ký mộng)

(Trước nói khổ đau ốm,
Sau nói cách biệt lâu.
Vừa khóc vừa nói chẳng dứt lời)

Tỉnh ra rồi ông vẫn bàng hoàng, ngờ ngợ, không biết đây là mơ hay thật: “Bình sinh vốn không biết đường/Hồn mộng này là thực hay hư?”, cũng không hiểu một người con gái bé bỏng yếu đuối giữa tình thế muôn nghìn bất trắc như trong những ngày ông đang sống, từ một nơi xa thăm thẳm làm cách nào để có thể tìm đến gặp mình:

Điệp sơn đa hổ hủy,
Lam thủy đa giao ly.
Đạo lộ hiểm thả ác,
Nhược chất tương hà y?
(Ký mộng)

(Núi Tam Điệp nhiều hùm rắn,
Sông Lam lắm thuồng luồng.
Đường sá hiểm lại dữ,
Thể chất yếu đuối biết cậy ai [dẫn đường]?)

Từ “cái tôi” đến vũ trụ nhân sinh

Và tất cả những nỗi đau thương u uất dồn lại, về cuộc đời, về con người, về các triều đại kế tiếp nhau, đã hình thành nên trong nhân sinh quan của Nguyễn Du một ý thức thường trực, một cảm hứng bi thiết về sự mong manh của đời người, của số phận. Sự nhạy cảm của một thi nhân cỡ lớn càng giúp Nguyễn Du nâng cảm hứng của mình lên tầm tư tưởng, như một khái quát nghệ thuật đắt giá về “phận người” nói chung.

Hiện diện đâu đó trong thơ ông một tiếng nói sâu thẳm về cái thế giới ảo cảnh làm ta nhức nhối, mà lại cũng có sức cuốn hút lạ lùng. Nguyễn Du gần với Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án khi ông nhìn vũ trụ dưới cạnh khía “nương dâu bãi bể”. Nguyễn Du cũng đã gặp Nguyễn Gia Thiều trong một thoáng ám ảnh “bóng câu qua cửa sổ”:

Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ
(Hành lạc từ)

(Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ còn trơ lại một nấm đất)

Giữa “làm” và “nghĩ” – nét độc đáo trong con người Nguyễn Du

Tóm lại Nguyễn Du là một dạng nhà nho có phần đặc biệt. Trong ông có “cái hèn” mà mọi anh trí thức thông thường đều có, có khoảng cách không nhỏ giữa làmnghĩ, khác với một phân số nhà nho thống nhất được giữa hai mặt ấy như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, cũng khác với kiểu nhà nho như Nguyễn Công Trứ, làmnghĩ tuy kết hợp gắn bó và được thực hiện hết mình nhưng đồng thời lại cũng biết cởi bỏ tâm thế bị dồn nén bằng cái hành vi chơi hết mình.

Nhà thơ lại càng không có được một tiếng cười trào tiếu như Hồ Xuân Hương biết đẩy mọi uất ức thoát ra ngoài khiến lòng mình bớt nặng. Nhưng con người trở trăn hai ba phía kiểu Nguyễn Du là con người biết tìm sự đối thoại ngầm trong cuộc sống, đối thoại với mọi điều ngang trái của quyền lực, của nhân tình thế thái, cận kề ngay trước mắt, giáng lên đầu, khi mình chưa kịp hiểu, chưa thể lý giải, khi trong tâm lý mình còn cố cưỡng lại mặc dầu lý trí đã phải khuất phục, phải chấp nhận. Đó là khuynh hướng dân chủ vô thức vốn có mầm mống ở một hạng kẻ sĩ khá quen thuộc trong lịch sử song không phải thời nào cũng kết tinh được những đại diện tiêu biểu.

Nguyễn Du là người biết khao khát chân lý và cũng do đó biết sống theo những tình cảm mà lương tri mách bảo; là con người biết “tỉnh táo để nhìn đời” và cũng do đó đã tránh được những phản ứng lầm lạc trong mọi hoàn cảnh tối tăm. Nhưng càng nhìn đời, càng thấy xung quanh mình tràn đầy thống khổ, thì lại càng bế tắc. Càng đưa suy nghĩ lên mức khái quát thì lại càng chìm sâu vào một nỗi đau vô hình. Suốt đời, nhà thơ đã vùng vẫy trong cái mớ bòng bong tư tưởng đó:

Nhất sinh u tứ vị tằng khai
(Thu chí)

(Trọn đời mối u sầu chưa hề gỡ ra)

Hình tượng một con người đi trong bóng đêm dày đặc, hãi hùng, bị gió lạnh dồn cả vào mình, và cứ mong cho chóng sáng mà không thấy sáng, thật đã phản ánh đúng cái cảm nghĩ của Nguyễn Du về sự mất phương hướng. Đấy không chỉ là hình ảnh tự họa chính xác của nhà thơ mà còn có ý nghĩa của một biểu tượng – là hiện thân tấn bi kịch trầm kha của chế độ phong kiến ở giai đoạn đã đông cứng trong mọi khuôn khổ cũ kỹ, không còn để ngỏ những khả năng lựa chọn cho bất kỳ một mơ ước hồn nhiên cao đẹp nào.

Nguyễn Du với những kiếp người tài hoa bạc mệnh

Gắn bó với con người, với cuộc sống, và nhìn sâu vào lịch sử, Nguyễn Du còn đặc biệt thương xót cho một loại người có tài và có tình. Ấy là những nhà văn nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà cuộc đời trải muôn vàn bất hạnh, là những bậc anh hùng hào kiệt thất thế, là những người phụ nữ có sắc đẹp nghiêng thành phải chịu một số phận buồn thảm. Những con người ấy, dù thân phận của họ là danh nhân, là đào hát, là “tướng giặc”, là gì đi nữa, nhưng đã sống khác với mọi người và chết trong bần cùng hoặc bất đắc kỳ tử, thì đều là đối tượng của tấm lòng ưu ái của Nguyễn Du.

Đặt chân lên đất Trung Hoa, Nguyễn Du như được đi ngược thời gian, trở lại với nền văn hóa đã ươm mầm nên học vấn của mình, tiếp xúc với những nhân vật lừng danh mà mình hằng gần gũi, thân thuộc qua sách vở. Đi qua tỉnh Sơn Đông, ông nghe “tiếng đàn, tiếng đọc sách trong các thành nước Lỗ, nước Trâu hãy còn vang” (Biệt thành huyền tụng Lỗ, Trâu dư – Đông lộ). Nhưng tình cảm sâu nặng của ông không hề dành cho những kẻ đương thời nắm trong tay quyền sinh quyền sát đối với trăm họ: “Nước chảy mây bay cuốn cả cơ đồ bá vương” (Lưu thủy phù vân thất bá đồ – Sở vọng). Tình cảm của ông dồn hết cho những tài năng văn chương còn để lại tiếng tăm muôn đời.

Kết luận

Nói tóm lại, thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là một thế giới đa dạng, phong phú, được xây dựng từ chính những trải nghiệm của nhà thơ trong cuộc đời đầy biến động. Từ những con người khốn khổ, bần hàn cho đến những bậc anh hùng, giai nhân tài sắc, tất cả đều được Nguyễn Du khắc họa một cách chân thực, sống động với tất cả tấm lòng cảm thông sâu sắc. Chính điều này đã tạo nên sức sống lâu bền cho thơ ca Nguyễn Du nói chung và góp phần làm nên giá trị nhân văn to lớn cho nền văn học Việt Nam.

(Hoàn thành tháng 11-1965. Bổ sung tháng 11-1998)


Chú thích:

(1) Những câu thơ dịch trong bài này chủ yếu trích theo cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (tập mới) của Nxb. Văn học, Hà Nội, 1965.
(2) (3) Chúng tôi dịch thơ.
(4) Trong bài Tự thán của Nguyễn Du có câu: “Hà năng lạc phát quy lâm khứ” (Ước gì có thể gọt tóc vào rừng ở).
(5) Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958.
(6) Cao Chu Thần thi tập.
(7) Ý này mượn của Trần Ngọc Vương.
(8) Theo bản dịch của Phạm Khắc Khoan – Lê Thước.
(9) Tài liệu do đoàn cán bộ của Viện Văn học đi sưu tập ở Trung Quốc về chuyến đi sứ của Nguyễn Du, cho biết mỗi khi sứ bộ đi qua tỉnh nào đều có các quan đầu tỉnh tiếp đón rất long trọng
(10) (11) (12) (13) Chúng tôi dịch thơ.
(14) Xem: Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán của Xuân Diệu, Tạp chí Văn nghệ, số 58, 3-1962.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?