Tháp Po Kloang GaraiTháp Po Kloang Garai (Phan Rang, Ninh Thuận) – Dấu tích một thời huy hoàng của vương quốc Champa. Ảnh: nghiencuulichsu.com
Nội dung bài viết
Năm 1692, vua Champa Po Soat (Bà Tranh) tiến hành quấy rối dinh Bình Khang, mở ra một chương mới trong quan hệ Đại Việt – Champa. Hành động này dẫn đến cuộc chinh phạt Panduranga (Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay) của Nguyễn Hữu Cảnh, đặt dấu chấm hết cho nền độc lập của vương quốc Champa. Tuy nhiên, câu chuyện về Champa sau năm 1692 lại không đơn giản chỉ là sự sáp nhập hoàn toàn vào lãnh thổ Đại Việt. Panduranga tiếp tục tồn tại, nhưng dưới một hình hài mới: phiên quốc chư hầu của chúa Nguyễn, được biết đến với tên gọi Trấn Thuận Thành.
Sự Hình Thành Trấn Thuận Thành – Phiên Quốc Panduranga – Champa
Cuộc hành quân của Nguyễn Hữu Cảnh vào Panduranga năm 1692 – 1693 kết thúc với việc bắt giữ vua Po Soat và sáp nhập vùng đất này vào Đàng Trong, ban đầu đặt tên là Trấn Thuận Thành, sau đổi thành Phủ Bình Thuận (1697). Sự thay đổi này gây ra làn sóng phản kháng từ cư dân bản địa, tiêu biểu là cuộc nổi dậy của A Ban (Ngô Lãng) và Ốc Nha Thát năm 1693-1694. Cuộc nổi dậy lan rộng, chiếm được phần lớn phủ Bình Thuận, buộc chúa Nguyễn phải tìm kiếm giải pháp ổn định tình hình.
Hình ảnh Nguyễn Hữu Cảnh, người có công lớn trong việc mở mang bờ cõi về phương Nam. Ảnh: Wikipedia
Trước tình hình bất ổn và theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Cảnh cùng thỉnh cầu của Po Saktiraydapatih (em vua Po Soat), chúa Nguyễn quyết định khôi phục Trấn Thuận Thành (1694), phong Po Saktiraydapatih làm phiên vương, trao trả ấn tín, và đặt ra lệ cống nạp hàng năm. Đây đánh dấu sự ra đời của phiên quốc Panduranga – Champa dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn, song song với việc thành lập Phủ Bình Thuận (1697) nhằm quản lý khu vực định cư của người Việt. Mô hình hành chính đặc biệt này, với các khu định cư của người Chăm nằm rải rác xen kẽ trong vùng đất người Việt, tạo nên một bức tranh chính trị – xã hội phức tạp.
Panduranga – Champa Dưới Ách Bảo Hộ Của Chúa Nguyễn (1697-1771)
Giai đoạn từ 1697 đến 1771 chứng kiến mối quan hệ tương đối hòa bình giữa chúa Nguyễn và phiên quốc Panduranga – Champa. Phiên vương Po Saktiraydapatih duy trì lệ cống nạp, tham dự các sự kiện quan trọng của chúa Nguyễn, đồng thời nhận được sự hỗ trợ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và duy trì an ninh. Chúa Nguyễn cũng ban hành các quy định nhằm đảm bảo sự công bằng trong giao thương và sinh hoạt giữa người Chăm và người Việt, hạn chế xung đột sắc tộc.
Cổng tam quan chùa Thiên Mụ nơi Po Saktiraydapatih và gia thần đã đến dự lễ khánh thành năm 1714. Ảnh: Wikipedia
Sự tồn tại của triều đình, quân đội, và luật pháp riêng của Panduranga – Champa được ghi nhận trong các văn bản Chăm và ghi chép của thương nhân phương Tây, cho thấy phiên quốc này vẫn giữ được một mức độ tự trị nhất định.
Thời Kỳ Thoái Trào và Sụp Đổ (1771-1832)
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (1771) kéo theo những biến động lớn cho Panduranga – Champa. Phiên quốc này trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, dẫn đến xung đột nội bộ giữa các phe phái khác nhau. Sự can thiệp của cả hai thế lực khiến cho tình hình chính trị trong phiên quốc trở nên rối ren, làm suy yếu quyền lực của vương triều.
Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua Gia Long (1802), Panduranga – Champa bước vào một giai đoạn mới, tiếp tục là vùng đất tranh chấp, lần này là giữa triều đình Huế và Tổng trấn Gia Định Thành Lê Văn Duyệt. Sự phân chia quyền lực này càng làm sâu sắc thêm sự chia rẽ trong nội bộ phiên quốc, đẩy nó đến bờ vực sụp đổ.
Cuối cùng, sau khi Lê Văn Duyệt qua đời (1832), vua Minh Mạng đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ tự trị của Panduranga – Champa, sáp nhập vùng đất này vào tỉnh Bình Thuận. Đây đánh dấu sự kết thúc của vương quốc Champa, một vương quốc từng hùng mạnh một thời.
Kết Luận
Số phận của Panduranga – Champa sau năm 1692 là một minh chứng cho sự phức tạp của lịch sử. Sự tồn tại của phiên quốc này dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn, rồi sau đó là triều Nguyễn, cho thấy một nỗ lực dung hòa giữa chinh phục và thỏa hiệp. Tuy nhiên, những biến động chính trị và quân sự cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của Panduranga – Champa, khép lại một chương dài trong lịch sử Champa và quan hệ Việt – Chăm. Sự kiện này cũng đặt ra những câu hỏi về vai trò của cá nhân trong lịch sử, như quyết định của vua Minh Mạng năm 1832, và bài học về sự cần thiết của hòa hợp dân tộc trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tài Liệu Tham Khảo
- Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.
- Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon.
- Danny Wong Tze Ken (2007), The Nguyen and Champa during 17 and 18 century, IOC – Champa, San Jose.
- Lê Thành Khôi (1955), Le Vietnam: Histoire et Civilisation, Edit de Minuit, Paris.
- Lương Ninh (2004), lịch sử vương quốc Champa, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Lafont .P-B (1991), “Les grandes dates de l’histoire du Campa”, Le Campa et leMonde malais, CHCPI, Paris.
- Lê Qúy Đôn (2007), Toàn tập, tập 2 : Phủ Biên Tạp Lục, phần 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
- Mak Phoeun (2004), “Po Cei Brei sang Kampuchia cầu cứu viện trợ vào năm 1795 – 1796”, Champaka 4, IOC – Champa, San Jose.
- Nhiều tác giả (1984), Inventaire desarchives du Panduranga du fonds de la SociétéAsiatique de Paris (pièces en caractères chinois), CHCPI, Paris.
- Phan Khoang (1969), Việt sử : Xứ Đàng Trong, Khai Trí, Saigon.
- Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de l’EPHE, IV°section, Paris.
- Po Dharma (1987), Le Panduranga(Campa) 1802-1835,EFEO, Paris.
- Po Dharma (1981), Complément au catalogue des manuscrits cam desbibliothèques françaises, l’EFEO, Paris.
- Po Dharma (1989), “Les Frontieres du Campa (derbier etat des recherches)”, Les Frontieres du Vietnam, L’Hamattan, Paris.
- Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực Lục, tập 1 & 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
- Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam Liệt Truyện, tập 2: chính biên – sơ tập, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
- Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2010), Minh Mạng Chính Yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
- Tạ Chí Đại Trường (2012), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771 – 1808), Nxb. Tri thức, Hà Nội.
- Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp.HCM.
- Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Nicolas Weber (2004), “Cuộc khởi nghĩa Tuen Phaow vào năm 1796 – 1797”, Champaka 4, IOC – Champa, San Jose.