Yên Đài Thu Vịnh – Sứ thần Đoàn Nguyễn Tuấn (1750 – ?) và 28 bài thơ tuyệt tác viết về mùa thu tại Bắc Kinh

cbeadf9b40bd8daf4a8de7a47f46381c8027a6ba_size100_w640_h640cbeadf9b40bd8daf4a8de7a47f46381c8027a6ba_size100_w640_h640

Trong lịch sử bang giao Việt – Trung, thơ văn giữ vai trò quan trọng như một nhịp cầu nối kết văn hóa. Các sứ thần Việt Nam, bên cạnh việc thực thi quốc mệnh, còn là những thi sứ tài hoa, dùng thơ ca để thể hiện khí phách, tài năng của người Việt. Trong số đó, Đoàn Nguyễn Tuấn, thành viên sứ bộ Tây Sơn sang Trung Quốc năm 1790, nổi bật với chùm thơ “Yên Đài Thu Vịnh” – 28 bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, khắc họa bức tranh thu Bắc Kinh đầy thi vị.

Sứ đoàn do Chánh sứ Phan Huy Ích dẫn đầu, với sự tham gia của Đoàn Nguyễn Tuấn, anh trai Bà Đoàn Nguyễn Thị Huệ, vợ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là thời kỳ nhà Tây Sơn đang trên đà hưng thịnh, sau đại thắng Đống Đa, uy danh lừng lẫy. Sứ bộ Tây Sơn với quy mô lớn, gần 160 người, mang theo cả voi, ngựa cùng ban hát đã khiến triều đình nhà Thanh phải nể phục.

Thơ ca thời bấy giờ không chỉ là thú vui tao nhã, mà còn là thước đo trí tuệ, học vấn. Trong vai trò sứ thần, việc ứng tác thơ ca trước các triều thần, tao nhân mặc khách là cách thức khẳng định bản lĩnh văn hóa, uyên bác của đất nước. Đoàn Nguyễn Tuấn đã làm tròn sứ mệnh “thi tướng” trên mặt trận văn hóa ấy, để lại “Yên Đài Thu Vịnh” như một minh chứng tài năng, tâm hồn và cả nỗi niềm tha hương của ông.

Thu hứng xứ người

“Yên Đài Thu Vịnh” ra đời trong bối cảnh đặc biệt, khi Đoàn Nguyễn Tuấn đang trên đất khách, xa quê hương muôn dặm. 28 bài thơ tứ tuyệt như một cuốn nhật ký bằng thơ, ghi lại cảm nhận tinh tế của ông về mùa thu Bắc Kinh, đồng thời ẩn chứa nỗi nhớ quê hương da diết.

Mở đầu chùm thơ là bức tranh thu “Phòng Thu” (Thu Khuê) tĩnh lặng mà nao lòng:

Thu phong bả tụ hốt sơ băng,

Liêu tịch thâm khuê, lãnh bất thăng.

Cẩm tự chức thành lân tín diểu,

Hỷ hoa dạ dạ bốc hàn đăng.

(Gió thu vuốt áo, nước nhen băng,

Vắng vẻ phòng sâu nỗi lạnh lùng.

Chữ gấm dệt rồi tin cá vắng,

Đêm đêm báo hỷ, bói hàn đăng.)

Giữa không gian tĩnh mịch, “gió thu vuốt áo”, “nước nhen băng”, nỗi lạnh như thấm sâu vào lòng người lữ khách. Hình ảnh “chữ gấm dệt rồi” gợi nhớ chuyện nàng Tô Huệ dệt gấm cầu mong chồng trở về. Còn “tin cá vắng” lại ẩn dụ nỗi nhớ nhà của người xa xứ. Giữa nỗi niềm ấy, “hoa đèn lạnh” soi rọi không gian càng thêm cô liêu.

Nỗi nhớ quê hương càng da diết hơn qua hình ảnh “mây thu” trong bài “Thu Vân”:

Ngũ sắc nồng trang ngự uyển chi,

Nhàn vân nhất phiến khứ hà chi ?

Phù du nhược độ Nam minh thủy,

Nghĩ phụ trùng giam đạt viễn ty.

(Ngự uyển rực màu mây ngũ sắc,

Một vầng mây lạc dạt về đâu ?

Lững lờ vượt biển Nam trôi mãi.

Cho gửi lòng ta một nỗi sầu.)

Vẻ đẹp “ngũ sắc” của ngự uyển cũng không níu giữ được lòng người đang hướng về quê hương. “Vầng mây lạc” như phóng chiếu hình ảnh người lữ khách đang bơ vơ trên đất khách. Ước muốn gửi gắm “nỗi sầu” qua “vầng mây” chính là khát khao được trở về quê hương.

Bài “Thu Sơn” lại thể hiện khát vọng vươn lên vượt qua khó khăn của người kẻ sĩ khi xa nhà:

Tình thu nhất sắc tảo phù vân,

Thúy nghiễn, thương nhai hiện cẩm vân.

Ngã dục huề cùng đăng tuyệt đỉnh,

Phủ khan đại khối ác triêu huân.

(Một màu thu tạnh, chẳng mây trôi,

Núi biếc, đèo xanh gấm vẻ vời.

Chống gậy muốn trèo lên đỉnh núi.

Ngắm ánh dương soi rạng đất trời.)

Hình ảnh “núi biếc, đèo xanh” hiện lên với “gấm vẻ vời”, nhưng không khiến người đọc chú ý vào vẻ đẹp đó. Cái chính là ý chí “muốn trèo lên đỉnh núi”, để “ngắm ánh dương soi rạng đất trời”, tượng trưng cho khát vọng vươn tới lý tưởng, khẳng định bản thân.

Giao hòa văn hóa

“Yên Đài Thu Vịnh” không chỉ là tiếng lòng của người xa xứ, mà còn là minh chứng cho sự giao thoa văn hóa Việt – Trung. Đoàn Nguyễn Tuấn đã khéo léo sử dụng hình ảnh, điển tích quen thuộc trong thi ca Trung Hoa để thể hiện cảm xúc, suy tư của mình.

Bài “Thu Dạ” gợi nỗi buồn thâm trầm qua hình ảnh “Bắc đình”, “kèn”, “ốc” và “đèn lạnh”:

Thu da thiều thiều ngọn Sóc đình,

Giá thanh giác vận bất kham thinh.

Bồi hồi cô quán hàn đăng hạ,

Y bí tàn phân mãn nguyệt tinh.

(Thao thức đêm thu chốn Bắc đình,

Điệu kèn, tiếng ốc chói thanh âm,

Quán vắng bồi hồi đèn lạnh lẽo,

Tràn ngập trăng sao chiếu áo chăn.)

“Bắc đình” là nơi diễn ra các hoạt động lễ nghi quan trọng của triều đình Trung Hoa, thường gắn liền với âm nhạc “kèn”, “ốc”. Nhưng trong cảm nhận của người xa xứ, âm nhạc ấy lại “chói thanh âm”, gợi nỗi cô liêu, lạc lõng.

Bài “Thu Nguyệt” lại gợi nhớ đến hình ảnh “sông Quỳnh” – biểu tượng cho quê hương, đất nước:

Ngã hình quân ảnh cộng thành song,

Tứ thập niên lai bạn tiểu song.

Vạn lý tương tùy lâm Sóc mạc,

Tình thần nhất dạng chiếu Quỳnh giang.

(Ta hình, mình bóng cộng song đôi,

Bốn chục năm qua sánh bạn đời.

Muôn dặm theo nhau về đất Bắc,

Sông Quỳnh một thuở vẫn còn soi.)

“Sông Quỳnh” ở đây mang ý nghĩa tượng trưng, khắc sâu nỗi nhớ quê hương của tác giả. Dù đang ở “đất Bắc” xa xôi, nhưng trong tiềm thức, hình ảnh quê hương vẫn luôn hiện diện.

Không chỉ sử dụng hình ảnh, Đoàn Nguyễn Tuấn còn khéo léo vận dụng điển tích Trung Hoa. Trong bài “Thu Cúc”, ông nhắc đến Đào Tiềm – nhà thơ nổi tiếng đời Tấn, người ẩn cư, trồng cúc và sống cuộc đời thanh bạch:

Bách thu điêu linh, thặng lục sao,

Lăng sương kim giáp độc thành bao.

Đối hoa, hốt ức đông ly hạ,

Tam lưỡng thu lai, phụ tố giao.

(Trăm cây xơ xác, cúc còn xanh,

Một khóm đùa sương, khóm cúc vàng.

Trước hoa chợt nhớ bên hàng dậu,

Mấy độ thu qua phụ bạn lòng.)

Hình ảnh “cúc vàng” bên “hàng dậu” gợi nhớ đến Đào Tiềm, qua đó thể hiện tâm hồn yêu thích thiên nhiên, mong muốn sống cuộc đời thanh nhàn giữa núi rừng.

Giá trị “Yên Đài Thu Vịnh”

Chùm thơ “Yên Đài Thu Vịnh” mang giá trị văn học đặc sắc. Với thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh và ẩn dụ, Đoàn Nguyễn Tuấn đã khắc họa thành công bức tranh thu Bắc Kinh vừa uyển chuyển, vừa man mác nỗi buồn của người xa xứ. Đồng thời, ông còn thể hiện sự am hiểu văn hóa Trung Hoa và khéo léo kết hợp với tâm hồn Việt để tạo nên nét riêng cho tác phẩm.

“Yên Đài Thu Vịnh” không chỉ góp phần làm phong phú thêm kho tàng thi ca chữ Hán Việt Nam, mà còn góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Trung. Tác phẩm đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, đánh giá cao về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Kết luận

“Yên Đài Thu Vịnh” của Đoàn Nguyễn Tuấn là minh chứng cho tài năng và tâm hồn của người kẻ sĩ Việt Nam thời kỳ lịch sử đầy biến động. Chùm thơ không chỉ là tiếng lòng của người xa xứ, mà còn là nhịp cầu giao hòa văn hóa, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Trung.

Tài liệu tham khảo:

  • Đoàn Nguyễn Tuấn, Hải Ông Thi Tập (Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn), Viện Hán Nôm, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1982.

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là những người đam mê lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam. Chúng tôi không chỉ có kiến thức sâu rộng về các sự kiện và nhân vật quan trọng mà còn luôn tìm kiếm những góc nhìn mới mẻ và độc đáo để mang đến cho độc giả. Mỗi thành viên trong đội ngũ đều tâm huyết với công việc nghiên cứu và biên soạn nội dung, giúp tạo ra những bài viết chất lượng, truyền tải thông tin chính xác và hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn mang lại cho độc giả những trải nghiệm học hỏi thú vị, góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của lịch sử đất nước.

Bạn đã đọc chưa?