Thương nhân châu Âu đã giao thương với châu Á từ lâu đời, được ghi chép trong hành trình của Marco Polo trên con đường tơ lụa. Sau chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới của Magellan năm 1521 (không phải 1592), người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan mới bắt đầu thực dân hóa và thiết lập thương mại tại Á Đông.
Nội dung bài viết
Tại Việt Nam, người Bồ Đào Nha đến miền Nam trước tiên, lập thương điếm tại Hội An. Sách của Maybon và Russier ghi lại rằng năm 1614, đời chúa Sãi, một người Bồ Đào Nha tên Jean de la Croix đã lập lò đúc súng ở Thuận Hóa, nay vẫn còn được gọi là Phường Đúc (Huế). Người Pháp thì từ năm 1680 đã xin mở cửa hàng ở Phố Hiến. Sự xuất hiện của thương nhân châu Âu cũng đồng nghĩa với sự du nhập của Thiên Chúa giáo.
Thiên Chúa Giáo Và Sự Xung Đột Văn Hóa
Theo Khâm Định Việt Sử, từ năm 1533, đời vua Lê Trang Tông, một người phương Tây tên I-nê-khu đã truyền đạo Thiên Chúa ở các làng Ninh Cường, Quần Anh (huyện Nam Trực, nay thuộc tỉnh Nam Định) và làng Trà Lũ (huyện Giao Thủy, nay thuộc tỉnh Nam Định). Nam Sử của Trương Vĩnh Ký ghi lại rằng năm 1596, đời Nguyễn Hoàng, giáo sĩ Tây Ban Nha Diego Adverte đã đến truyền đạo ở miền Nam. Tuy nhiên, do lo ngại ý đồ quấy nhiễu của các tàu Tây Ban Nha đi cùng, chúa Nguyễn đã trục xuất họ.
Việt Nam vốn theo Nho giáo, coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và tế tự thần thánh. Sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo, với việc từ bỏ các tập tục cũ, đã bị các vua chúa xem là “tà đạo”, phá hoại phong hóa, nên đã ra lệnh cấm đoán và trừng phạt những người theo đạo. Đến thời Thiệu Trị và Tự Đức, lệnh cấm đạo càng thêm gay gắt, dẫn đến nhiều vụ đàn áp giáo sĩ và giáo dân.
Bối Cảnh Quốc Tế Và Tham Vọng Thực Dân Của Pháp
Sau Cách mạng Công nghiệp, các cường quốc châu Âu tranh giành thuộc địa để tìm kiếm thị trường tiêu thụ và nguyên liệu. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan rồi đến Anh và Pháp đều tham gia vào cuộc chạy đua này. Ở châu Á, Anh và Pháp nhắm đến thị trường Trung Quốc rộng lớn, nhưng triều đình nhà Thanh khi đó suy yếu, bảo thủ và không nắm bắt được tình hình thế giới.
Người Pháp đã biết về việc đàn áp giáo sĩ ở Việt Nam nhưng chưa có ý định can thiệp. Năm 1831, vua Louis Philippe đặt lãnh sự quán tại Manila (Philippines, thuộc Tây Ban Nha). Năm 1839, Tổng lãnh sự Adolphe Barrot nhiều lần đề nghị chính phủ Pháp chú ý đến thương mại châu Á và giành một vị trí tại đây, lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh và Hà Lan. Từ năm 1840, Pháp điều nhiều chiến hạm đến biển Trung Quốc, Macao, Hồng Kông, Manila, Batavia và Singapore.
Từ khoảng năm 1840, dư luận Pháp yêu cầu chính phủ can thiệp quân sự vào Việt Nam để bảo vệ Thiên Chúa giáo. Các giáo sĩ liên tục gửi về Pháp tin tức về sự ngược đãi họ gặp phải. Thái độ khiêu khích của giáo sĩ và sĩ quan hải quân Pháp đã làm mất cơ hội hòa giải giữa hai nước, vua Thiệu Trị ra lệnh xử tử người châu Âu bị bắt trên lãnh thổ Việt Nam.
Chiến tranh Nha phiến mở rộng thị trường Trung Quốc cho phương Tây, Pháp cũng được quyền buôn bán tại các thương cảng Trung Quốc từ năm 1844. Chính phủ Pháp muốn có căn cứ ở Nam Hải để hỗ trợ tàu bè trên Thái Bình Dương. Năm 1844, Ngoại trưởng Guizot cử tướng Cécille và đặc sứ Lagrenée sang Trung Quốc, tìm kiếm căn cứ ở Á Đông, nhưng do không muốn xung đột với Anh, Guizot yêu cầu Cécille không động đến Việt Nam.
Từ Can Thiệp Quân Sự Đến Hòa Ước Nhâm Tuất
Napoleon III lên ngôi Hoàng đế, được sự ủng hộ của phe bảo thủ và Công giáo, yêu cầu bảo vệ quyền lợi của Thiên Chúa giáo ở Trung Quốc và Việt Nam. Để thỏa mãn tham vọng thực dân và củng cố uy tín, Napoleon III cũng muốn tìm thị trường cho công nghiệp Pháp và giành chiến thắng quân sự. Năm 1851, việc một số giáo sĩ Pháp và Tây Ban Nha bị giết đã gây náo động dư luận Pháp.
Năm 1856, Pháp cử Leheur de Ville-sur-Arc đem chiến thuyền Catinat đến Đà Nẵng, gửi thư trách móc triều đình Huế về việc giết giáo sĩ và giáo dân. Không nhận được trả lời, quân Pháp bắn phá Đà Nẵng rồi rút lui. Đây chỉ là bước dọn đường cho cuộc xâm lược sau khi kết thúc chiến tranh với Trung Quốc.
Pháp cử Montigny sang điều đình, đề nghị tự do thông thương, đặt lãnh sự ở Huế, buôn bán ở Đà Nẵng và tự do truyền đạo. Triều đình Huế bác bỏ. Montigny đưa giáo sĩ Pellerin về Pháp kêu gọi Napoleon III can thiệp quân sự vào Việt Nam. Pellerin vận động xâm lược Việt Nam, hứa sẽ dẫn đường cho quân Pháp, được Hội Truyền giáo Ngoại quốc ở Paris ủng hộ.
Năm 1857, dưới áp lực của nhóm Công giáo, Hoàng hậu Eugénie và vụ giáo sĩ Tây Ban Nha bị giết, Pháp liên minh với Tây Ban Nha tấn công Việt Nam. Napoleon III lập Hội đồng Nam Kỳ, muốn dựa vào Hiệp ước Versailles năm 1787 để hợp thức hóa việc xâm lược. Năm 1858, Rigault de Genouilly đem liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, hạ thành An Hải và Tôn Hải. Nguyễn Tri Phương chống cự quyết liệt, ngăn quân Pháp tiến sâu.
Không thể đánh Huế, Rigault de Genouilly chuyển hướng tấn công Gia Định. Thành Gia Định thất thủ, Đô đốc Vũ Duy Ninh tự vẫn. De Genouilly muốn giảng hòa nhưng triều đình Huế do dự, không đạt được kết quả. Quân Pháp ở Đà Nẵng bị bệnh dịch, Rigault de Genouilly phải về Pháp.
Năm 1859, Thiếu tướng Page sang thay, đề nghị tương tự Montigny nhưng bị từ chối. Năm 1860, Page tuyên bố mở cửa sông Sài Gòn cho thương thuyền các nước liên hệ với Pháp. Chính phủ Pháp muốn rút quân nhưng Rigault de Genouilly phản đối. Bộ trưởng Hải quân Chasseloup-Laubat cho rằng Sài Gòn là căn cứ quan trọng. Sau khi hòa ước với Trung Quốc, Đô đốc Charner được lệnh củng cố sự chiếm đóng ở Nam Kỳ. Năm 1861, Pháp chiếm Kỳ Hòa, Mỹ Tho và thiết lập bộ máy cai trị.
Triều đình Huế cử Nguyễn Bá Nghi vào Nam Kỳ. Nghi muốn giảng hòa nhưng Trương Đăng Quế phản đối. Charner yêu cầu tự do tín ngưỡng, nhượng Gia Định và Định Tường, tự do đi lại và buôn bán. Vua Tự Đức chỉ chấp nhận tự do tín ngưỡng, kêu gọi toàn dân kháng chiến. Quân kháng chiến do Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân… lãnh đạo, dùng chiến thuật du kích gây khó khăn cho quân Pháp.
Năm 1862, Pháp chiếm Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long. Nguyễn Trung Trực đốt tàu Espérance. Thiệt hại của Pháp lên tới 2.000 người. Vua Tự Đức chấp nhận thương thuyết do kinh thành Huế thiếu lương thực và Lê Duy Phụng nổi loạn ở Bắc Kỳ. Hòa ước Nhâm Tuất (5/6/1862) được ký, nhượng Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn Đảo cho Pháp. Pháp trả lại Vĩnh Long.
Sự Trở Mặt Của Pháp Và Vai Trò Của Henri Rieunier
Năm 1863, vua Tự Đức muốn chuộc lại ba tỉnh, cử sứ bộ sang Pháp và Tây Ban Nha. Pháp gặp khó khăn tài chính do chiến tranh ở Ý và Mexico, dư luận phản đối viễn chinh. Vấn đề Nam Kỳ không được quan tâm. Giới kinh doanh Pháp cũng không mặn mà với Nam Kỳ. Báo chí Pháp không ủng hộ chiếm đóng vĩnh viễn.
Ngoại trưởng Pháp Drouyn de Lhuys và Bộ trưởng Hải quân Chasseloup-Laubat phản đối sửa đổi hòa ước. Sĩ quan Aubaret khuyên trả lại ba tỉnh, trừ một số căn cứ, để đổi lấy quyền bảo hộ. Napoleon III cũng muốn thay đổi chính sách do vấn đề tài chính.
Sứ đoàn Việt Nam đến Pháp. Aubaret được cử sang Huế thương lượng, dự định ký hiệp ước chính trị và thương mại (15/7/1864). Tuy nhiên, Aubaret nhận lệnh từ Paris đình chỉ thương thuyết. Dư luận Pháp phản đối sửa đổi hòa ước từ tháng 2/1864. Sĩ quan Rieunier tích cực vận động chống lại việc này.
Rieunier thông thạo tiếng Việt, quen biết Pétrus Ký, từng là tùy viên của Rigault de Genouilly, tham gia chiến dịch Đà Nẵng và Gia Định (1859). Ông làm sĩ quan phụ tá và giám đốc sự vụ bản xứ trong bộ tham mưu của Charner, làm phó quận trưởng Cái Bè (1861). Rieunier tham gia ký hòa ước Nhâm Tuất và dự án tu chỉnh hòa ước ở Huế (1863), dẫn sứ bộ Việt Nam sang Pháp (1863).
Tháng 4/1864, Rieunier xuất bản sách La Question de Cochinchine au point de vue desintérêts français (Quyền lợi người Pháp trong vấn đề Nam Kỳ), trình bày khía cạnh quân sự và kinh tế của vấn đề, sau đó viết Solution pratique de la question de Cochinchine (Giải đáp thực tiễn cho vấn đề Nam Kỳ). Sách được gửi đến các bộ trưởng, thống chế, đô đốc, nghị sĩ, quan chức, cơ quan… Báo chí Pháp dành nhiều ưu ái cho các sách này.
Phái thuộc địa ở Pháp gồm sĩ quan hải quân và dân biểu đại diện giới kinh doanh hải cảng, cùng với sách của Rieunier, đã gây áp lực buộc lãnh đạo Pháp thay đổi thái độ với Nam Kỳ. Dân biểu Arman (Bordeaux) viện dẫn sách của Rieunier để yêu cầu triệu hồi Aubaret. Ngày 18/5/1864, Chasseloup-Laubat kiến nghị Napoleon III giữ ba tỉnh. Ngày 10/11, chính phủ Pháp bác bỏ hiệp ước Aubaret.
Nguyên nhân chính là kinh tế. Sĩ quan Francis Garnier xuất bản La Cochinchine française en 1864, nói lên lợi ích kinh tế của Nam Kỳ. Báo chí Pháp dùng lý lẽ của Rieunier và Garnier để biện minh cho việc chiếm đóng Nam Kỳ. Saigon nằm giữa Singapore và Hồng Kông, thuận lợi thương mại, nhưng Pháp phải kiểm soát toàn bộ Nam Kỳ mới thu hút đầu tư.
Hậu Quả Của Sự Thất Bại Ngoại Giao
Ngày 20/1/1865, La Grandière thông báo cho Huế về việc Pháp không phê chuẩn hiệp ước Aubaret. Ngày 1/4/1865, Đô đốc Roze tuyên bố Nam Kỳ thuộc Pháp vĩnh viễn.
Thất bại của hiệp ước Aubaret đặt Việt Nam vào tình thế khó khăn. Pháp coi nhượng bộ của Huế là nhu nhược, còn cự tuyệt là thiếu thiện chí. Từ 1862-1864, Pháp do dự giữa giữ hay trả Nam Kỳ, sau đó quyết định chiếm toàn bộ.
Một nguyên nhân thất bại của nhà Nguyễn là quân đội lạc hậu, suy yếu do vấn đề tài chính. Triều đình trọng văn khinh võ, không canh tân như Nhật Bản. Thời Tự Đức, binh pháp không theo phương Tây, vũ khí lạc hậu, binh lính thiếu huấn luyện. Thủy quân không có tàu hơi nước, không bảo vệ được bờ biển.
Phan Bội Châu phê phán thái độ tự mãn, bảo thủ của triều đình, coi rẻ nhân dân, xem thường dư luận. Vua Tự Đức thiếu quyết đoán, không hiểu biết tình hình quốc tế, giao phó mọi việc cho Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng Giai, bỏ lỡ cơ hội hòa giải, dẫn đến mất Nam Kỳ và bị Pháp đô hộ.
Việc Pháp xâm lược Việt Nam khó tránh khỏi do Việt Nam không có ngoại giao mềm dẻo như Xiêm. Hải quân Pháp cạnh tranh với Anh, muốn chiếm vị trí ở các lục địa để kiểm soát biển và phát triển thương mại. Truyền đạo chỉ là cái cớ cho việc can thiệp quân sự.
Tài liệu tham khảo:
Sách/Tài liệu gốc:
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược.
- Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử (1961).
- Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Thời Pháp Đô Hộ.
- MGT, L’Indochine ,fleuron asiatique de l’empire colonial français.
- Hervé Bernard, Henri Rieunier et la conquête de la Cochinchine.
- H.Abel, La Question de Cochinchine au point de vue desintérêts français (1863).
- H.Abel, Solution pratique de la question de Cochinchine (1864).