Thần Chú Trừ Ái Dục

Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Lời Phật dạy

Đức Phật đã dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, hãy tránh xa ánh mắt vô ích và không nên tiếp xúc với phụ nữ. Nếu không tránh được, hãy chấp nhận một tư duy chính đáng: “Ta là một vị sĩ tử sống trong thế gian hỗn loạn, ta nảy sinh từ bùn nhưng không để bùn làm bẩn tâm hồn. Chúng ta phải có tầm nhìn xa xôi, xem phụ nữ lớn tuổi như mẹ, lớn hơn mình như chị, nhỏ hơn mình như em, và nhỏ hơn nữa như con cháu. Chúng ta phải nhìn phụ nữ từ góc độ “thoát khỏi họ” để tiêu diệt những ý niệm ác độc.”

Ái dục là nguyên nhân chính gây ra sự luân hồi.

Ái dục là quả bom phá hủy con đường giải thoát.

Đập tan ái dục là chặn đứng sự luân hồi và mở ra con đường giải thoát.

Ái dục, có thể nói là sự đam mê hệ lụy, nó không loại trừ đối tượng nào, dù đó là tuổi tác, tông tộc. Ảnh minh họa
Ái dục, có thể nói là sự đam mê hệ lụy, nó không loại trừ đối tượng nào, dù đó là tuổi tác, tông tộc. Ảnh minh họa

Do vậy, những người tu theo Đạo giải thoát phải ngăn chặn tâm ái dục, từ bỏ ái dục và diệt trừ ái dục. Ái dục, có thể nói là sự đam mê hệ lụy, không phân biệt đối tượng, bất kể tuổi tác hay tình cảm. Do đó, để diệt trừ nó, chúng ta cần áp dụng phương pháp phù hợp cho từng trường hợp cụ thể. Phương pháp cụ thể này được Đức Phật đề cập trong chương này, đó là luôn giữ chánh niệm trong giao tiếp với người khác giới nói chung. Bởi qua giao tiếp, tình cảm dễ phát sinh và tình cảm đã phát sinh sẽ dẫn đến cuộc sống phi phạm hạnh. Vì vậy, có chánh niệm trong giao tiếp, tiếp xúc với người khác giới được coi là phương pháp tối ưu để kiềm chế tâm ái dục, tình yêu.

1. Xét về nguồn gốc

Chương này được viết dựa trên Kinh Bharadvaja (S.iv.110) trong Tương Ưng Bộ Kinh tập 4 trang 119 và 122, với một số thay đổi nhằm tạo ra một văn bản ngắn gọn, súc tích và nhớ lâu hơn. Phần nguyên nhân và lời khuyên tu tập đã được bỏ đi.

Trong phần nguyên nhân, không phải Đức Phật tự mình truyền ngôn, mà là vua Udana hỏi tôn giả Pindola Bharadvaja về cách các Tỳ kheo trẻ tuổi có thể bảo toàn phạm hạnh viên mãn: “Thưa tôn giả, làm thế nào để trẻ tuổi Tỳ kheo không bị dục vọng, thực hiện toàn bộ phạm hạnh trong sạch suốt đời và sống cuộc sống đầy đủ hạnh phúc?” Sau đó, tôn giả Pindola Bharadvaja trả lời bằng cách nhắc lại lời dạy của Đức Phật đối với các Tỳ kheo: “Thưa đại vương, Đức Thế Tôn đã dạy như sau: hãy coi người phụ nữ đáng làm mẹ như là mẹ, người phụ nữ đáng làm chị như là chị, người phụ nữ đáng làm em như là em, và người phụ nữ chỉ là con gái như là con gái (con cháu). Đây là cách Tỳ kheo trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, nói về nhân, về duyên, không bị dục vọng tác động, và thực hành phạm hạnh trong sạch suốt đời và sống cuộc sống đầy đủ hạnh phúc.”

Trong bản gốc, tôn giả Bharadvaja còn đề cập đến ba phương pháp để kiểm soát tâm tham ái: không quan sát nữ sắc, không tìm hiểu chi tiết về nữ sắc và giữ gìn sáu căn.

Sau khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự khiến tham ái ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên hãy thực hành nguyên nhân chế ngự các căn ấy. Đây là nhân, đây là duyên
Sau khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự khiến tham ái ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên hãy thực hành nguyên nhân chế ngự các căn ấy. Đây là nhân, đây là duyên

Về phương pháp không quan sát, quan sát nữ sắc như sau: “Hãy quan sát cơ thể này, từ bàn chân lên đến đỉnh đầu, bao gồm da và đầy ắp những phần không thể chênh lệch. Trong cơ thể này, có tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ruột, phổi, tụy, túi mật, nước tiểu, phân, mủ, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, máu, ước muốn sinh con, nước ở khớp xương. Đây là nhân, đây là duyên…”

Về phương pháp giữ gìn sáu căn, nội dung như sau: “Hãy giữ gìn sáu căn. Sau khi nhìn thấy sắc, nghe thấy tiếng, ngửi hương, nếm vị, cảm xúc thân thể, không nắm giữ tướng chung và không nắm giữ tướng riêng. Những gì gây ra ý thức không kiềm chế trong tham ái và những tác động không thiện vào đó, hãy thực hành giữ gìn nguyên nhân để kiềm chế. Đây là nhân, đây là duyên.”

Trong phiên bản này, những phương pháp khác đã được lược bỏ. Chỉ còn lại phương pháp đầu tiên, đó là chánh niệm đối với người khác giới, để có cái nhìn xa xôi, giải thoát. Mặc dù rút ngắn, nhưng vẫn giữ được đa dạng phong phú trong phương pháp tu tập.

2. Cách loại bỏ tâm ái nhiễm

Phương pháp loại bỏ tâm ái nhiễm được nêu ra ở đây là hạn chế tối đa quan sát, dòm ngó và để ý về nữ sắc.
Phương pháp loại bỏ tâm ái nhiễm được nêu ra ở đây là hạn chế tối đa quan sát, dòm ngó và để ý về nữ sắc.

Phương pháp loại bỏ tâm ái nhiễm được nêu ra ở đây là hạn chế tối đa việc quan sát, dòm ngó và để ý về nữ sắc. Bởi chính việc quan sát, dòm ngó và để ý đến nữ sắc sẽ dẫn tâm theo đuổi đam mê tình dục. Và điều này là không hạnh phúc và đau khổ. Do đó, không quan sát nữ sắc là phương pháp đầu tiên để ngăn chặn tâm ái nhiễm.

Tuy nhiên, trong thực tế, người tu sĩ không thể tránh khỏi các hoạt động xã hội và phải tham gia vào các hoạt động đó. Nhưng khi gặp phải nữ sắc hoặc trong môi trường chung, việc tiếp xúc, giao tiếp và trò chuyện cũng phải hạn chế tối đa theo khả năng có được. Và khi phải trực tiếp giao tiếp, người tu sĩ phải luôn giữ chánh niệm, không để tình dục can thiệp vào. Nhưng có thể thấy rằng phương án sau cùng này là phương án hợp lý nhất và có hiệu quả trong việc ngăn chặn và loại bỏ tâm ái nhiễm. Bởi vì, chính tác ý về tình dục là nguyên nhân xác định của tình dục, như vài dòng kinh văn dưới đây xác định:

“Một người phụ nữ gây tác động đến giới tính nữ, chuyển hóa giới tính nữ, ái mộ giới tính nữ, lòng ham mê giới tính nữ, sự yêu thích giới tính nữ, sự bị lôi cuốn bởi giới tính nữ. Nên cẩn thận trước những tác động này. Tương tự như vậy, do sự ham mê, tác ý của người đàn ông đến giới tính nữ bên ngoài, chuyển hóa giới tính nam, ái mộ giới tính nam, lòng ham mê giới tính nam, sự yêu thích giới tính nam, sự bị lôi cuốn bởi giới tính nam… Do sự ham mê và hào hứng, tác ý của người phụ nữ tới giới tính nam, dẫn đến việc quan hệ tình dục với người cha hoặc người con trai trong khi đáng là cha hoặc con trai. Qua thông tin truyền thông chúng ta đã biết đầy đủ câu chuyện này. Ngay cả trong thời kỳ Đức Phật còn sống, trong giáo đoàn Tăng lão, có một trường hợp hai mẹ con là Tỳ kheo ni và Tỳ kheo tăng đã có quan hệ tình dục với nhau do tác ý gây lôi cuốn.”

“Một lần Đức Thế Tôn đang ở Savatthi tại Tetavana, khi đó cả hai mẹ con sống cùng nhau trong mùa mưa và với danh nghĩa của Tỳ kheo ni và Tỳ kheo tăng, họ thường xuyên muốn gặp mặt nhau. Mẹ luôn muốn gặp con và con cũng muốn gặp mẹ. Vì luôn gặp gỡ nhau, họ có quan hệ chặt chẽ. Do quan hệ chặt chẽ, tình cảm trở nên thân mật. Do tình cảm trở nên thân mật, họ đã sa ngã. Từ đó, họ quên bỏ việc học tập, sống một cách không đoan trang, trở thành tình nhân của nhau.”

Và câu chuyện này đã được truyền đến Đức Phật. Đức Phật nhận thấy rằng: “Này các Tỳ kheo, chỉ những người ngu ngốc mới nghĩ rằng mẹ không gây tác động đến con gái, người con gái không gây tác động đến mẹ. Ta không thấy ai có hình dạng nào mà lại quyến rũ và đẹp như nữ nhân. Nhưng những ai yêu thích, ham mê, bị lôi cuốn và mê mải bởi vẻ đẹp của nữ nhân, họ sẽ trở thành nạn nhân của khổ đau và phiền não vĩnh viễn. Do đó, cách loại bỏ tâm ái nhiễm, ái dục mà kinh này đề cập là khoa học và hiệu quả, nó chặn đứng ái nhiễm từ nguồn gốc, trước khi ái nhiễm phát sinh, và tôn trọng giá trị nhân cách của chính bản thân.

Ngoài ra, cũng có những trường hợp, người tu sĩ mặc dù không quá đà trong việc giao tiếp với người khác giới như phạm Ba la di hay Tăng tàn, nhưng lại thích được phục vụ và xoa bóp bởi người khác giới… Điều này cũng coi là làm cho phạm hạnh không trọn vẹn và không trong sạch. Như Đức Phật đã dạy:

“Có người, dù sống đời sống phạm hạnh chân chính nhưng vẫn được phụ nữ xoa bóp, tắm rửa và bôi dầu. Người đó thích thú, ước muốn và bị kích thích bởi phụ nữ. Đây được gọi là sự phạm hạnh bị hủy hoại, bị tỳ vết, bị nhiễm ô, bị chấm dứt. Đây được gọi là hành động phạm hạnh không trong sạch, bị liên quan, bị ảnh hưởng bởi dục vọng, không giải thoát khỏi sự sinh, già, bệnh, chết, phiền muộn và khổ đau.”

Ngoài ra, có người, dù sống đời sống phạm hạnh chân chính nhưng vẫn chơi đùa, vui chơi với phụ nữ, nhìn vào mắt phụ nữ, theo chân phụ nữ, lắng nghe tiếng cười, tiếng khóc, tiếng hát của phụ nữ và có những kỷ niệm, ảo tưởng về chúng. Tất cả những điều này khiến người đó bị kích thích bởi tình dục bất thiện. Đây được gọi là phạm hạnh bị tỳ vết, ta nói rằng không thoát khỏi sự đau khổ.”

Do đó, trong kinh, Đức Phật còn đặt Tỳ kheo vào trận chiến để loại trừ tâm ái dục, duy trì phạm hạnh giải thoát. Nếu trong quân đội có năm loại chiến sĩ yếu đuối thấy bụi mù tung lên, thấy cờ xí dựng lên, nghe thấy tiếng la hét, bị thương đã chùn bước, chùn chân không can đảm tham gia chiến trận, thì trong việc đối mặt với phụ nữ cũng vậy:

  1. Tỳ kheo khi thấy bụi mù… sẽ rút lui khỏi cuộc sống phạm hạnh, từ bỏ việc học pháp, trở về cuộc sống thế tục. Bụi mù ở đây có nghĩa là khi nghe nơi nào đó có một phụ nữ, cô gái xinh đẹp, quyến rũ như hoa sen.

  2. Tỳ kheo khi thấy cờ xí dựng lên… sẽ rút lui khỏi cuộc sống phạm hạnh. Cờ xí ở đây có nghĩa là khi tình cờ gặp mặt, bị quyến rũ bởi một phụ nữ, cô gái xinh đẹp… như hoa sen.

  3. Tỳ kheo khi nghe tiếng la hét… sẽ rút lui khỏi cuộc sống phạm hạnh. Tiếng la hét ở đây có nghĩa là khi phụ nữ cười đùa, trêu chọc, nói những lời đùa cợt, cười to với Tỳ kheo.

  4. Tỳ kheo khi bị thương… sẽ rút lui khỏi cuộc sống phạm hạnh. Bị thương ở đây có nghĩa là khi phụ nữ ngồi cạnh, vuốt ve những vùng nhạy cảm ở những nơi đông người.

  5. Tỳ kheo chiến thắng… chiến thắng ở đây có nghĩa là không bị cám dỗ, không bị ám ảnh. Tỳ kheo sẽ tự tin loại bỏ tình yêu và đi nơi mình muốn mà không bị giam cầm bởi tình dục.

Bốn loại Tỳ kheo đầu tiên sẽ dẫn đến việc làm hỏng phạm hạnh, không để tâm đến nữ sắc, không để tâm đến những tác động của nữ sắc theo hướng xấu, dẫn đến phạm hội hủy hoại. Loại Tỳ kheo thứ năm được gọi là người chiến thắng, bảo vệ phạm hạnh trong sạch là người dám vứt bỏ mọi ý niệm không tốt về phụ nữ, biết tìm nơi phù hợp để bảo toàn phạm hạnh. Đó là mục tiêu mà tất cả chúng ta cần hướng đến.

Tóm lại, để duy trì phạm hạnh trong sạch như băng tuyết, người tu sĩ phải biết quan sát và chánh niệm. Hạn chế việc quan sát, dòm ngó và để ý về nữ sắc. Khi phải tiếp xúc, giao tiếp và trò chuyện, phải luôn giữ chánh niệm tỉnh thức. Phải có cái nhìn xa xôi, nhìn những mặt xấu của sắc dục. Phải có ý chí giữ gìn sáu căn, không để tâm đến nữ sắc. Phải có cái nhìn trông như cha mẹ, anh chị em và con cháu để loại bỏ tâm ái luyến. Và phải đặt mình trong tư thế của một đạo sư, không quan hệ như tình bạn hoặc tình yêu nam nữ. Với tư duy như vậy, phạm hạnh sẽ trong sạch, hoàn toàn và chắc chắn rằng, nhờ đó mà sẽ đạt được giải thoát.

Trích sách “Tìm hiểu kinh bốn mươi hai chương” – TT Thích Nhật Từ

Bài viết thực hiện bởi Khám Phá Lịch Sử

Đội ngũ biên tập viên tại khamphalichsu.com là các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bằng sự kết hợp tinh tế giữa con người và công nghệ AI, chúng tôi tạo ra những bài viết không chỉ độc đáo mà còn đầy hấp dẫn.

Bài viết liên quan